Số phận ba tôi tóm lại một chữ rủi. Theo cụ Phan Bội Châu năm 17 tuổi, theo cách mạng năm 19 tuổi, ba tôi đã thực thi nhiều nhiệm vụ vẻ vang. Và thường rủi ro lại đến với ba tôi ngay sau đó. Cả vẻ vang lẫn rủi ro của ba tôi đều dính đến một người có tên là Thủ trưởng. Đó là người đàn ông dong dỏng cao có nụ cười chết gái mà ba tôi và những thuộc cấp của Thủ trưởng đều đồng thanh gọi là nụ cười ấm áp tình đồng chí.
Thủ trưởng theo cụ Phan Bội Châu sau ba tôi, theo cách mạng cũng sau ba tôi. Chính ba tôi kết nạp Thủ trưởng vào đảng và bày cho Thủ trưởng học chữ quốc ngữ. Nhưng chỉ cần mười năm sau Thủ trưởng là thủ trưởng của ba tôi. Ba tôi không hề ghen ghét, xưa nay ông không hề ghen ghét với ai, đối với Thủ trưởng, ông thực sự kính trọng và ngưỡng mộ. Ông hạnh phúc vô cùng khi được Thủ trưởng xiết chặt, rưng rưng cất lên chín tiếng tuyệt vời, nói đồng chí rất tốt, tôi tin tưởng đồng chí.
Suốt đời ba tôi trông chờ nụ cười ấm áp tình đồng chí của Thủ trưởng và chín tiếng tuyệt vời đó. Không phải ông không nhờ rất nhiều lần ông khốn nạn nhục nhã vì nụ cười ấm áp tình đồng chí và chín tiếng tuyệt vời đó nhưng ông vẫn trông chờ, đó là điều tôi không thể hiểu ba tôi, cho đến khi viết những dòng này tôi vẫn không cách sao hiểu nổi.
Năm 1937, ba tôi được phân công đến ga tàu Thị xã Hoa Hồng đón Thủ trưởng, nhận từ Thủ trưởng một bao một bao tải truyền đơn. Thủ trưởng chưa kịp giao bao tải truyền đơn cho ba tôi cảnh sát đã ập đến. Họ bắt Thủ trưởng cùng với bao tải truyền đơn đẩy lên xe. Thủ trưởng nhìn ba tôi, cái nhìn cầu cứu khẩn thiết. Ba tôi nhận ra từ cái nhìn ấy một nhiệm vụ vẻ vang, ngay lập tức ông lao đến xe cảnh sát giằng lấy cái bao tải, nói đây là bao tải của tôi.
Cảnh sát tóm luôn ba tôi đưa về đồn. Tại đồn ba tôi chứng minh cái bao tải là của ông, Thủ trưởng là ai đó ông không hề quen biết. Cảnh sát hỏi ba tôi, nói anh mang bao tải truyền đơn này giao cho ai? Ba tôi làm bộ sửng sốt kêu lên, nói sao lại truyền đơn? Hóa đơn của ông bác tôi thuê in ở Huế, giao tôi vô Huế ấy đem về.
Cảnh sát cho người ra gặp ông bác Vĩ. Là người có chỉ số IQ cao nhất mọi thời đại của Thị trấn Linh Giang, vừa nghe nói ba tôi bị bắt cùng bao tải truyền đơn ông bác tôi biết ngay ba tôi đã khai gì và ông phải xử lý thế nào. Ông cười kha kha kha, nói tôi giao cho nó vô Huế nhận bao tải hóa đơn, sao lại ra bao tải truyền đơn? Chắc đêm hôm ngủ gật, cu cậu lấy lộn bao tải của ai đó rồi.
Cảnh sát vừa rời nhà, ông bác Vĩ đã gọi điện cho ông chủ nhà in ở Huế là con trai của ông bác Hiệp Phú, nói như vầy như vầy. Một giờ sau cảnh sát Huế đến nhà in, ông chủ nhà in vừa kịp có hợp đồng thuê in hóa đơn và biên lai xuất kho bao tải hóa đơn cùng biên lai thanh toán tiền của ông bác Vĩ. Ba tôi được thả ra cùng Thủ trưởng. Chia tay ở bến Nước, Thủ trưởng ôm chầm lấy ba tôi rưng rưng, nói đồng chí rất tốt, tôi tin tưởng đồng chí.
Sau cái xiết chặt rưng rưng và chín tiếng tuyệt vời Thủ trưởng không gặp ba tôi nữa, bỗng nhiên ông mất liên lạc với cách mạng, những đầu mối của tổ chức bỗng biến mất tăm không để lại giấu vết. Ba tôi hoang mang không hiểu vì sao, càng cố sức tìm kiếm vì sao ông càng rơi vào vực thẳm im lặng. Một năm sau bỗng nhiên ba tôi bắt được liên lạc với mọi đầu mối trước đây. Họ như mọc dưới đất lên nói nói cười cười như không hề có chuyện họ đã lặn mất tăm trước đó. Phải chục năm sau ba tôi mới hiểu vì sao.
Năm 1947 Pháp tái chiếm Thị trấn, ba tôi được lệnh rút lên chiến khu Chóp Chài, vì có chút chữ nghĩa ông được điều về trợ lý Thủ trưởng chiến khu. Cơ hội “ gần mặt trời” ai không mơ ước, ba tôi cũng thế, thậm chí ông còn mơ ước nhiều hơn. Thủ trưởng là người được ba tôi cứu thoát khỏi tù đày, cái ôm chầm ấm áp tình đồng chí, nụ cười ấm áp tình đồng chí cùng với chín tiếng tuyệt vời làm sao ba tôi quên được. Thủ trưởng cũng không quên. Khi ba tôi vừa khoác ba lô bước vào, Thủ trưởng đã ôm chầm lấy ba tôi rưng rưng, nói mừng lắm mừng lắm Vũ ơi! Mười năm rồi anh em mình lại được sống với nhau.
Cái ôm chầm ấm áp tình đồng chí và nụ cười ấm áp tình đồng chí làm ba tôi ứa nước mắt vì hạnh phúc, niềm hy vọng “ gần mặt trời” của ông ngày mỗi tỏa sáng.
Một hôm Thủ trưởng kêu mất cái ví. Thủ trưởng tỏ ra rất lo lắng, nói trong ví nỏ có chi, chỉ có ảnh vợ con. Vợ con đang ở vùng tạm chiếm, lỡ may địch bắt được cái ví thì nguy.
Ba tôi tự giao cho mình nhiệm vụ vẻ vang: phải tìm cho được cái ví cho Thủ trưởng. Một tuần lùng sục khắp nơi, khi đã tuyệt vọng ông bỗng thấy cái ví bên bờ suối gần ngay lán của Thủ trưởng. Ba tôi mừng rú, vội vàng giao nộp cho Thủ trưởng. Thủ trưởng cũng mừng rú, ôm chầm lấy ba tôi rưng rưng, nói cảm ơn Vũ lắm lắm.
Cái ôm chầm ấm áp tình đồng chí và nụ cười ấm áp tình đồng chí của Thủ trưởng báo cho ba tôi biết từ nay Thủ trưởng sẽ coi ba tôi như con, không được như con cũng như em, không được như em cũng bạn bè chí thiết. Ba cái tình ấy mới quan trọng chứ không phải tình đồng chí, nếu không có ba thứ tình đó làm nồng cốt thì tình đồng chí tóm lại cũng là thứ tình suông. Ba tôi thừa biết điều đó và khấp khởi mừng thầm.
Chẳng ngờ hôm sau đi tắm về, ba tôi bắt gặp liên lạc của Thủ trưởng đang xổ tung ba lô của ông. Ba tôi túm ngực liên lạc, nói răng lục ba lô tui. Liên lạc đỏ mắt tía tai ú a ú ớ, mãi sau mới khai thật trong ví Thủ trưởng còn năm trăm đồng bạc Đông Dương, Thủ trưởng kiểm tra ví không có mới sai anh ta lục tìm ba lô của ba tôi.
Ba tôi nổi điên chạy thẳng vào lán Thủ trưởng, nói Thủ trưởng nghi tôi lấy tiền của trong ví phải không? Nói thẳng cho Thủ trưởng biết, nếu cần năm trăm đồng bạc Đông Dương không đời mô tui đi theo cách mạng. Ba tôi tưởng Thủ trưởng sẽ cười xòa, nói thôi thôi, anh em đùa đấy mà, đời mô tôi nghi Vũ lấy tiền. Nhưng không, Thủ trưởng cười nhạt, vẩy vẩy ngón tay trước mặt ba tôi, nói anh khinh cách mạng nghèo khổ phải không? Ai chẳng biết anh có ông bác là đại tư sản. Ba tôi cứng họng, cứ trương mắt nhìn Thủ trưởng không biết nói sao.
Ngày hôm sau ba tôi khoác ba lô về khu tuyên giáo, khu buồn chán nhất trong bảy khu của chiến khu Chóp Chài. Bù lại ba tôi gặp được cô gái tên Mai, người đẹp chiến. Chỉ chừng vài ngày chịu khó hái hoa rừng và lén lút trổ tài đọc thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính ba tôi đã đánh gục được người đẹp chiến khu, đêm đêm kéo người đẹp vào hang đá ân ái cho tới khuya. Nhờ vậy ba tôi mới biết vì sao năm 1937 ba tôi đột ngột mất liên lạc.
Cô Mai kể cho ba tôi hay, chính Thủ trưởng đã báo lên chiến khu ba tôi là cháu ruột của đại tư sản Phạm Vĩ, đã được đại tư sản Phạm Vĩ nuôi nấng dạy dỗ từ tấm bé. Đại tư sản Phạm Vĩ lại có quan hệ rất mật thiết với tất cả quan lại trong tỉnh và khá nhiều quan lại trung ương. Ba tôi được liệt vào đối tượng nguy hiểm, thậm chí đã có kế hoạch thủ tiêu ông vì ông biết quá nhiều đầu mối của cách mạng.
May cho ba tôi tại thời điểm đó Thủ trưởng chưa là thủ trưởng chiến khu, Thủ trưởng chỉ là người đưa tin, chưa quyết định được số phận của ba tôi. Lại may nữa, người phụ trách quân nhu chiến khu tình cờ biết được chuyện này, bèn vội vàng báo cho tư lệnh chiến khu biết: lương thực cho chiến khu Chóp Chài chủ yếu do đại tư sản Phạm Vĩ đóng góp. Ba tôi thoát chết trong gang tấc và bắt được liên lạc với cách mạng ngay tức thì.
Chuyện của cô Mai làm ba tôi rùng mình toát mồ hôi nổi cả da gà không phải vì ba tôi thoát chết trong gang tấc, chính là ông nhớ lại cái ôm chầm ấm áp tình đồng chí cùng với nụ cười ấm áp tình đồng chí của Thủ trưởng. Ba tôi nhớ chín tiếng tuyệt vời của Thủ trưởng đêm chia tay ở bến Nước. Thủ trưởng đã ôm chầm lấy ba tôi rưng rưng, nói đồng chí rất tốt, tôi tin tưởng đồng chí.
Vốn yêu thơ Tố Hữu, tối hôm đó ba tôi đã ghi dưới đáy ba lô của mình “Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu” và đinh ninh đến chết ông cũng không quên câu thơ thần diệu đó.
Nhưng ông đã quên.
Sáu năm sau ba tôi cùng với Đội trưởng làm cuộc cách mạng long trời lỡ đất năm 1953, khi cái điếu cày và hai lạng thuốc lào đầu tiên ba tôi dâng lên Đội trưởng, ông lại được nghe chín tiếng tuyệt vời. Chín tiếng tuyệt vời đó báo cho ba tôi biết Đội trưởng là cận vệ tin cậy của Thủ trưởng. Chỉ có cận vệ tin cậy của Thủ trưởng mới ngang nhiên lấy cắp chín tiếng tuyệt vời, ngôn ngữ độc quyền của Thủ trưởng. Đáng lẽ ba tôi phải rùng mình toát mồ hôi nổi cả gà nhưng không, ông vui mừng như được gặp lại cố nhân, cơ hội “gần mặt trời” lại tỏa sáng trong ông.
Bài học “Đánh giá con người cần có cái nhìn biện chứng” học được ở chiến khu Chóp Chài khiến ba tôi quên sạch những gì ông cần phải nhớ, kể cả câu thơ thần diệu của Tố Hữu. Thế rồi việc thường xuyên làm điếu cày cho Đội trưởng và cứ hai ngày một lần đạp xe bốn chục cây số vào thị xã Hoa Hồng mua đúng hai lạng thuốc lào cho Đội trưởng đã được ba tôi hân hoan coi đó là nhiệm vụ vẻ vang.
Nhưng nhiệm vụ vẻ vang không chỉ thuộc về ba tôi. Nhiệm vụ vẻ vang của chị Hiên còn vẻ vang hơn nhiệm vụ của ba tôi.
Từ ngày Đội trưởng trú tại nhà, chị Hiên luôn mặc bộ đồ màu mực Cửu Long, màu đặc trưng vừa được cách mạng chỉ định là màu giai cấp nồng cốt. Chị nghe Đội Trưởng giải thích như thế khi đưa tặng chị, thực tình chị cũng không hiểu vì sao mấy bộ đồ hợp thời trang Đội Trưởng trưng thu từ nhà một tên phản động lại trở thành bộ đồ giai cấp nồng cốt và vì sao chị được mặc bộ đồ của giai cấp nồng cốt trong khi chị thuộc tầng lớp buôn cám lợn.
Giải thích các khái niệm đấy là việc của lũ trí thức tiểu tư sản, không phải việc của Đội trưởng. Việc của Đội trưởng là kiên cường đè ngửa chị ra trên bốn bao tải cám lợn xếp bằng như một tấm nệm đế vương thời trung cổ. Chị Hiên bé nhỏ nhưng lẳn người, tòa thiên nhiên của chị không đến nỗi nào, ở cái tuổi mười chín tất cả đều căng ra, vun lên thật thỏa mắt nhìn.
Đội Trưởng không vội vàng lâm trận, thủng thẳng kéo một hơi thuốc lào, thò mồm phun khói thẳng vào hõm sâu. Chừng như làm thế vẫn không đã, Đội Trưởng rít một hơi thuốc lào khác, dí sâu vào hõm , từ tốn cho khói tuồn vào. Chị Hiên cười rinh rích, cặp đùi non kép chặt hai tai Đội Trưởng.
Khói thuốc lào dĩ nhiên không tuồn vào được, dội ngược trở ra xộc thẳng vào mũi Đội Trưởng. Đội Trưởng ngạt thở, hất mạnh đầu, nhào lên úp mặt vào bộ ngực non của chị ho sặc sụa. Tay xoa lưng Đội Trưởng, tay khéo léo tìm ngọc hành Đội trưởng chị cầm lấy dúi vào nơi cần dúi. Siết chặt lấy Đội Trưởng, đánh mông tới tấp chị buộc Đội trưởng phải chấm dứt cơn ho. Tức khắc Đội Trưởng hết ho, cứ thế thúc tới tấp hơn một giờ không nghỉ, xứng đáng là thiên tài hủ hóa.
Chị Hiên kêu hệt mèo kêu, tiếng mèo cái gọi đực đêm động dục vừa thảm thiết vừa hân hoan. Tiếng kêu lúc lúc lại rú lên chua loét, giật từng cơn, hực lên rồi tắt lịm lại hực lên rồi tắt lịm, tuồn qua tấm vách nứa đan thưa, tràn ra sân, nhào ra ngõ, lăn lóc dọc đường cái quan, trong vòng bán kính năm mươi mét không ai không nghe thấy.
Nhầm.
Chỉ có chị Hiên và Đội Trưởng đinh ninh là chẳng ai nghe thấy còn hầu hết hàng xóm của chị cố nuốt cục cười vào miệng, mặt tỉnh bơ coi như không có gì xảy ra. Không biết không nghe không thấy, phép phòng thân truyền kiếp kể từ ngày có Đại Việt ta. Không phải. Kể từ ngày mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, dân An Nam quá biết rõ bụng nhau. Cũng không phải nốt. Kể từ ngày vua Hùng chọn đất định đô quá gần nước Đại Ca, nơi luôn sản sinh những thiên tài hai mặt.
Chỉ có ba tôi là không nghe tiếng mèo kêu. Ông không nghe thấy thật, tuyệt không nghe thấy gì. Hình như ai đó bịt tai ông, xui ông vào chỗ chết.
Ba tôi vừa đạp xe từ Thị xã Hoa Hồng trở về, trong tay cầm đúng hai lạng thuốc lào, đi thẳng tới nhà chị Hiên. Khi người ta hoàn thành một nhiệm vụ vẻ vang, niềm vui sướng làm người ta quên hết mọi chuyện. Ba tôi cũng vậy, bốc được hai lạng thuốc lào vượt qua tám chục cây số đường trường cả đi lẫn về để dâng lên Đội Trưởng, hẳn nhiên ông đã hoàn thành một nhiệm vụ vẻ vang.
Đáng lý ba tôi phải nhận ra tức thì tiếng kêu thân thuộc đó khi cách nhà chị Hiên một trăm năm mươi mét. Thế mà ông không nghe. Khốn nạn. Ông dừng xe đạp trước ngõ, tháo gói giấy báo bọc hai lạng thuốc lào ở yên xe, rực lên niềm kiêu hãnh sắp được thấy cái miệng chuột chù của Đội Trưởng bành ra cùng với chín tiếng tuyệt vời: “ Đồng chí tốt lắm. Tôi tin tưởng đồng chí!”.
Khi đó tiếng mèo kêu đã tắt. Không phải cuộc ái ân đã tắt, chỉ vì chị Hiên đang lên cơn cực khoái thì Đội Trưởng bỗng thèm thuốc lào. Đội Trưởng dừng lại giữa chừng, khoan thai cúi xuống với lấy cái điếu cày, khoan thai thông nõ, tra thuốc, khoan thai châm đóm, rướn cổ rít một hơi dài. Tiếng điếu cày vang lên.
Khỉ, lần này ba tôi lại nghe rất rõ. Nó thông báo cho ba tôi biết Đội Trưởng đang có nhà và đang hút thuốc lào. Vậy thì việc gì phải gõ cửa, việc gì lên tiếng, cứ thế đi thẳng vào với hai lạng thuốc lào trong tay, dâng lên Đội Trưởng một bất ngờ thú vị. Ba tôi đẩy cửa bước vào. Ông đứng chết lặng trước cái đít đang nhoay nhoáy của Đội Trưởng. Ông tính thối lui nhưng không hiểu sao cứ đứng trơ ra đấy cùng với hai lạng thuốc lào trong tay.
Chị Hiên nhác thấy ba tôi đang đứng ngây như phỗng dưới háng mình. Chị giật mình đẩy Đội Trưởng bật ngửa, ôm ngực thảng thốt kêu lên, ôi cậu Vũ. Lúc này ba tôi mới tỉnh linh hồn. Ông ngượng nghịu đặt nhẹ hai lạng thuốc lào, nhiệm vụ vẻ vang Đội trưởng giao phó, lẳng lặng thối lui, chân nam đã chân chiêu dúi dụi đi ra ngõ, dắt xe đạp lao thẳng về nhà mình, chẳng hiểu thế nào lại chui đầu vào lùm dứa dại đầu hồi nhà, loay hoay mãi mới gỡ ra được, áo quần rách tướp, mặt mày tứa máu.
Ba tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau khi ông bắt quả tang Đội Trưởng đang ba cùng như thế nào trong nhà một cốt cán. Ông không đoán được, không cách gì đoán được số phận của mình rồi đây sẽ thế nào. Ông ngồi thất thần trên ngạch cửa. Mạ tôi hỏi đi hỏi lại dăm bảy lần, ông cứ trương mắt nhìn, quai hàm cứng ngắc không cách nào thốt được nên lời.
Mười lăm phút sau tiếng mèo kêu lại vang lên, lần này dữ dội hơn, cho biết Đội Trưởng đã có phương án khóa mõm hữu hiệu. Vận hạn ba tôi coi như chấm hết. Kì thực nó đã chấm hết ngay khi ba tôi đứng trước cái đít nhoay nhoáy của Đội Trưởng.
Rút từ truyện dài Những chuyện có thật và bịa đặt của tôi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét