Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2012

Xem lại MÙA HẠ CAY ĐẮNG sau 25 năm

Có nhà báo nói mình ra Huế dự Liên hoan sân khấu toàn quốc. Không phải, mình chỉ ra Huế xem lại vở Mùa hạ cay đắng sau 25 năm vắng bóng mà thôi. Mùa hạ cay đắng là kịch bản đầu tay, mình viết năm 1987 và được Nhà hát kịch Tuổi trẻ dàn dựng trong năm đó.  Bây giờ dù núp dưới cái tên Trường điện ảnh sân khấu nhưng toàn bộ e kíp là người của Nhà hát Tuổi trẻ, từ đạo diễn đến hậu đài. Điều đó khiến mình cảm động, dù đường xá xa xôi mình cũng cố ra Huế xem cho bằng được.


Mình sẽ có bài viết đàng hoàng về vở diễn. Bây giờ bận quá xin nói vội đôi câu.


Khi xem xong, những ai chưa xem vở này đều nức nở khen hay. Nhưng những ai đã xem rồi ( Vở này trước đây đã có 7 đoàn dàn dựng) thì dù vẫn thừa nhận là hay nhưng có cảm giác hụt hẫng. Đó là vì đạo diễn Anh Tú ( anh đã từng thủ vai Hoàng 25 trước đây) đã mới hóa vở diễn. Anh đã phá vỡ ngôn ngữ ước lệ của kịch bản, cố gắng đưa về ngôn ngữ tả thực. Hơn thế nữa anh đã đẩy vở diễn dưới cái nhìn hôm nay thay vì cái nhìn trong cuộc như tất cả các đạo diễn đã làm vở này trước đây. Do đó vở diễn rất gần gũi với người đương thời nhưng lại lại gây ra cảm giác hụt hẫng đối với những ai đã từng sống thời của vở kịch xảy ra.


Kim Oanh trong vai Thùy Linh vở này đã diễn rất hay . Trong 7 nghệ sĩ thủ vai Thùy Linh trước đây, mình thích nhất là Ngọc Huyền. Chị đã diễn được cái sự đắng. Đối với nghề diễn, diễn về sự  đau rất dễ  nhưng diễn về sự đắng rất khó. Rất ít người diễn về sự đắng thành công. Ngọc Huyền diễn được cả sự đau và sự đắng. Rất tiếc trong khi diễn sự đắng rất hay, Ngọc Huyền diễn về sự đau lại không thực lắm. Kim Oanh đã khắc phục được điểm này, chị diễn sự đau rất đắng, diễn sự đắng lại rất đau. Tài!


 Quang Ánh trong vai Trần Hới cũng rất đáng khen. Nhiều điểm đáng khen nữa nhưng bận quá không kịp viết. Hẹn khi khác. Khi vở diễn xong mình bắt tay Anh Tú và Kim Oanh, nói bất luận vở này được giải gì thì nó vẫn là vở diễn thành công, rất thành công.


Bây giờ mới bà con xem ảnh.


Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2012

Anh Ba, anh Tư ơi, hu hu...

Hôm nay, ngày 26/7, báo Việt Nam+ đã đưa tin: "Nhật sẽ "đáp trả mạnh mẽ" việc xâm phạm lãnh hải" (Tại đây): "Chiều 26/7, Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda tuyên bố sẽ "đáp trả mạnh mẽ" kể cả việc sử dụng đến lực lượng phòng vệ, trước các hành vi xâm phạm lãnh hải nước này. Tại phiên họp của Hạ viện, ông Noda khẳng định: "Trong trường hợp xuất hiện những hành vi phạm pháp do các nước xung quanh gây ra tại khu vực lãnh hải của Nhật Bản, trong đó có quần đảo Senkaku (Điếu Ngư), Chính phủ Nhật Bản sẽ đáp trả một cách mạnh mẽ bao gồm cả việc sử dụng lực lượng phòng vệ (SDF) nếu cần."


Trước đó, ngày 23/7, báo Dân Trí đưa tin: "Tổng thống Philippines kêu gọi người dân đoàn kết trước Trung Quốc" (Tại đây): "Tổng thống Philippines Benigno Aquino hôm nay đã kêu gọi toàn thể người dân Philippines đoàn kết để gửi một thông điệp tới Trung Quốc về cuộc tranh chấp lãnh thổ, khẳng định rằng đất nước ông sẽ không lùi bước trước người láng giềng khổng lồ."


Tổng thống Benigno Aquino còn nói với dân chúng của ông rõ ràng như thế này:"Nếu ai đó bước vào sân của các bạn và nói rằng anh ta sở hữu nó, liệu các bạn có đồng ý không? Liệu có phải là đúng đắn khi chúng ta từ bỏ cái thuộc về chúng ta một cách hợp pháp?”


Thế còn nước ta thì sao? Ngoài báo chí và anh Lương Thanh Nghị lên tiếng, dân chúng đợi dài cổ vẫn không thấy các bác nói năng chi. Vào lúc nước sôi lửa bỏng thế này mà các bác im hơi lặng tiếng thì thật lạ quá.


Hay các bác còn lo lạm phát, lo nợ xấu, lo chính đốn chỉnh điếc, tóm lại là lo giữ  gìn chế độ? Các bác lo là phải. Nhưng chế độ tồn tại nhờ vào cái gì, nhờ TQ hay nhờ vào dân? Ngồi chờ kẻ xâm lăng nước mình nó bảo vệ chế độ cho mình a? Lú!


Nhờ vào lòng tin của dân bác ạ. Dân còn tin thì chế độ không bao giờ mất, một nghìn Việt Tân viết teo cũng chẳng làm gì nỗi đâu, các bác đừng lo. Mình làm ăn kém nát dân đã mất tin rồi, bây giờ giặc giã đang quấy nhiễu ta, làm nhục ta mà các bác vẫn ngậm miệng ăn... chế độ thế này thì còn chút xíu niềm tin của dân chắc chắn sẽ bay mất đấy.


Tui nói cấm có sai, hu hu.


Nguyễn Quang Lập


Sự lãng quên nguy hiểm

Năm ngoái, ngày 17/6/2011, báo Quân đội nhân dân đã đưa tin “ Một nghĩa trang liệt sĩ bị lãng quên”. Đó là “Nghĩa trang liệt sĩ thuộc xã Sơn Hạ, một xã miền núi của huyện Sơn Hà - Quảng Ngãi, nơi an nghỉ của gần 200 liệt sĩ, trong những năm gần đây, đã bị xuống cấp  nghiêm trọng và trở thành nơi chăn thả trâu bò…” Tin này đã gây sốc, khiến người ta nhớ đến bao nhiêu sự lãng quên khác.


Anh hùng liệt sĩ Trần Văn Phương đã hy sinh ngày 14/3/1988 tại đảo Gạc Ma. “Khi quân Trung Quốc xông vào cướp cờ. Trần Văn Phương lao vào giằng giật lại lá cờ Tổ quốc. Anh đã cuốn cờ Tổ quốc quanh mình và hét vang “ Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo!” Tấm gương anh hùng sáng chói ấy cả nước đều ghi nhớ. Thế mà tại nghĩa trang liệt sĩ xã Quảng Phúc (huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình), khi xây dựng lại ngôi mộ người ta đã tước bỏ đi hai chữ anh hùng. Nhà báo Phạm Phú Thép đã vất vả ngược xuôi hết về huyện lại lên tỉnh  ròng rã một năm trời mới trả lại hai chữ anh hùng trên bia mộ liệt sĩ Trần Văn Phương. Chuyện nghe như đùa mà có thật, một sự thật đắng ngắt.


Một sự thật đắng ngắt khác, đấy là câu chuyện người anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh, người lính đầu tiên ngã xuống trong cuộc chiến tranh vệ quốc ở Biên giới phía Bắc, ngày 25/8/1978. Khi đó hàng nghìn bài báo, bài thơ và bài hát đã viết về anh. Thế nhưng kể từ 1990 tất cả bỗng chìm vào lãng quên. Chỉ hai năm gần đây mới có đôi bài bào nhắc đến người anh hùng ấy một cách rất dè dặt. Và“ Chúng tôi là đồng đội của Lê Đình Chinh”- bài hát nổi tiếng một thời, lời ca yêu nước hào hùng của những người lính và tuổi trẻ nhiều thế hệ, cũng bỗng biến mất tăm không dấu vết.


Cách đây 2 năm, 7/2010, tại Khánh Khê ( Lạng Sơn) nhà báo Đỗ Hùng đã phát hiện tấm bia ghi chiến công của bộ đội ta tại cuộc chiến tranh biên giới 1979: “Nơi đây Sư đoàn 33 đã đánh bại và chặn đứng quân Trung Quốc xâm lược”, bốn chữ “ Trung Quốc xâm lược” đã bị đục bỏ. Sự đục bỏ lịch sử trắng trợn và thảm hại đó khiến dân chúng choáng váng và đau đớn.



Từ những sự thật đắng cay và đau đớn kể trên buộc ta phải đặt câu hỏi: Liệu trên khắp 6 tỉnh biên giới phía Bắc còn bao nhiêu nghĩa trang liệt sĩ bị bỏ quên như nghĩa trang Sơn Hà- Quảng Ngãi*? Bao nhiêu anh hùng liệt sĩ bị đục bỏ hai chữ anh hùng, liệt sĩ như mộ của Trần Văn Phương? Bao nhiêu tấm gương anh dũng hy sinh chống quân xâm lược như Lê Đình Chinh từng đi vào sử sách đã bị nhanh chóng lãng quên?Và nói như nhà thơ Thanh Thảo, có bao nhiêu Liệt sĩ đã ngậm cười nơi chín suối bao nhiêu năm, song vẫn chưa chính thức nhận được danh xưng “Liệt sĩ”?


Bất luận vì lý do gì, sự lãng quên các anh hùng liệt sĩ là bất nghĩa và vô ơn. Còn như lãng quên, lãng tránh hay đục bỏ lịch sử chống ngoại xâm hào hùng của dân tộc là một tội ác. Khi Biển Đông đang dậy sóng, nhà cầm quyền Trung Quốc đang ngang nhiên xâm phạm chủ quyền của chúng ta tại Biển Đông, thì đó là sự lãng quên cực kì nguy hiểm.


Nguyễn Quang Lập


………


*Nhà báo Mai Thanh Hải đã phát hiện hai nghĩa trang liệt sĩ (NTLS) bị bỏ quên. Đó là  NTLS Phường Duyên Hải, TP. Lào Cai, tỉnh Lào Cai (Tại đây). Và NTLS xã Lệ Mỹ, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ (Tại đây). Qua những bức ảnh anh ghi lại người ta thấy sự hoang tàn, lạnh lẽo. Thậm chí cái ổ khóa cửa vào nghĩa trang đã rỉ rét.

Thứ Năm, 26 tháng 7, 2012

Lời đề nghị khẩn thiết!

 




[caption id="attachment_24722" align="alignleft" width="232"] Bản đồ Trung Quốc 1904 không có Hoàng Sa, Trường Sa[/caption]

Bà con ai chưa đọc thì hãy đọc ngay, đây là một thông tin cực kì quan trọng: "Bản đồ Trung Quốc 1904 không có Hoàng Sa, Trường Sa" (Tại đây). Bản đồ “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” (Địa dư toàn đồ tới các tỉnh của TQ được thực hiện dưới thời nhà Thanh) xuất bản năm 1904 ghi rõ cực nam TQ là đảo Hải Nam, không hề bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa.


Bữa trước Trần Tiến rủ mình đi nhậu. Anh chìa ra bài báo: "Bản đồ Trung Quốc 1904 không có Hoàng Sa, Trường", xúc động nói: Đời tao bị lừa nhiều quá rồi. Thành ra trong chuyện TS-HS tao không tin chính phủ, không tin báo chí, không tin cả chúng mày. Nhưng nhìn cái bản đồ này thì tao tin, tin 100% TS-HS là của Việt Nam. Nói xong thì anh khóc.


Qua việc này mình đề nghị bà con ra sức phát tán, tuyên truyền cái bản đồ này cho dân trong nước, đặc biệt dân TQ.  Báo lao động đã có một đề xuất rất hay: Vụ bản đồ Trung Quốc 1904 không có Hoàng Sa,Trường Sa: Phải cho dân Trung Quốc cùng biết (Tại đây) Vậy những ai biết tiếng Tàu hãy gia nhập thế giới mạng của Tàu để tuyên truyền cái bản đồ này.


Ngoài ra hãy phóng to bản đồ này lên các pano dựng ở các khách sạn, chỗ vui chơi, nơi đông người qua lại, trước cửa đại sứ quán TQ, nơi có người Tàu cư trú. Hãy in bản đồ này ở bìa 3, bìa 4 các sách giáo khoa từ lớp 1 đến đại học và tất cả các cuốn sách của các nhà xuất bản.


Trang nhất các tờ báo, các website báo chí lề phải hãy luôn để một góc in bản đồ này. 


Vì TS- HS, vì Biển Đông, vì chủ quyền của Tổ quốc, bà con hãy khẩn trương hành động, đừng trông chờ vào Chính phủ!












Dòng chữ Hán này đọc từ phải sang có nghĩa: Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ










Tiến sĩ Mai Hồng chỉ vào tấm toàn đồ Trung Quốc, dừng lại ở cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam. Không hề có Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) trong tấm bản đồ quý và chính thống này - Ảnh: Việt Dũng

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012

LẬP QUÊ CHOA

Lê Huy Mậu


Sau hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần thứ ba (12/1985) Hội nhà văn Việt nam có bố trí cho các nhà văn trẻ phía Nam một chuyến đi tham quan thực tế tại công trình thủy điện sông Đà. Trên chuyến xe đi sông Đà hôm ấy,  Nguyễn Đức Thọ và Nguyễn Quang Lập là xôm trò nhất. Nguyễn Đức Thọ thì phổ chèo một đoạn nghị quyết. Nguyễn Quang Lập kể một câu chuyện tiếu lâm.  Chuyện tiếu lâm thường là chuyện dân gian, không rõ tác giả. Người kể chuyện thường thêm thắt mắm muối vào, thổi vào câu chuyện cái hồn chuyện,  nó mang tinh thần của người kể  nhiều hơn là người sáng tác ban đầu của nó. Chuyện rằng, có mấy o xã viên ở Quảng bình đi cấy lúa cạnh một đơn vị tên lửa phòng không. Khi có báo động máy bay địch, mấy o  chạy lên bờ tìm chỗ ẩn nấp, các o chưa kịp nằm xuống thì bộ đội đã phóng tên lửa, làm mấy o ướt hết cả quần áo. Do mấy o khi thuật lại câu chuyện vừa thật thà, vừa hớ hênh nên người nghe kể mới liên tưởng ra chuyện khác, và cười. Cười không ở cốt chuyện, mà cười ở cách kể chuyện. Lập nhại giọng mấy o xã viên khéo đến nỗi, Trần Thùy Mai nghe xong cười chảy cả nước mắt!


Hồi ấy Lập chưa tới  ba mươi, nhưng đã có “số má” trên văn đàn rồi. Hôm uống rượu cần tại một bản dân tộc Mường , Lập có đọc bài thơ. Và  mình cũng chỉ biết Nguyễn Quang Lập không nhiều hơn thế cho tới khi gặp lại và quen nhau!


Mình thích  truyện ngắn Nguyễn Quang Lập viết về ký ức chiến tranh, về vùng đất Quảng bình quê Lập . Đọc truyện ngắn Nguyễn Quang Lập  thấy nó phảng phất chuyện núi đồi và thảo nguyên của Aimatop. Nó lung linh, huyền ảo, ly kỳ và hấp dẫn từ đầu chí cuối.   


Thú thật, có nhiều nhà văn  tên tuổi, nhưng nếu hỏi mình nhớ tác phẩm nào của họ là mình tịt luôn. Thậm chí, khi cầm tờ Văn nghệ, tên tuổi họ sờ sờ ra đấy mà mình cũng không đọc. Trái lại, có những tác giả tuy ít tên tuổi hoặc mới viết, nhiều khi mình bập vào tờ báo, có họ là đọc ngay. Sau Nguyễn Huy Thiệp, mình nghiện văn Nguyễn Quang Lập. Hắn viết ra cái gì mình cũng đọc ngấu nghiến. Mình ở gần Trần Đức Tiến, phục Trần Đức Tiến ở tư cách cầm bút của hắn. Chưa bao giờ hắn cẩu thả trong viết lách. Kể cả khi hắn viết công văn hay viết báo cáo.  Văn hắn sạch và đẹp. Hắn tỷ mỷ đến từng dấu phẩy. Nhưng đọc truyện Trần Đức Tiến thấy con người trong đó nó cứ bần tiện, bẩn tưởi sao đó. Trần Đức Tiến, ở trong nhiều truyện ngắn thường khai thác phần “ngợm” trong người. Không có nhân vật tích cực hay tiêu cực riêng rẽ, mà chỉ có cái bần tiện, cái thấp hèn thường trực trong mỗi con người. Thông điệp mà truyện ngắn Trần Đức Tiến muốn nhắn gửi là khá rõ nhưng thường thì  tác giả làm nhòe mờ đi bằng thủ pháp hiện thực huyền ảo. Truyện ngắn Nguyễn Quang Lập thì trái lại. Nguyễn Quang Lập hiện thực đến trần trụi. Đọc truyện Nguyễn Quang Lập chẳng thấy bóng dáng tác giả viết văn đâu cả, chỉ thấy câu chuyện đời nó oái oăm, nó ly kỳ dâu bể thế, chẳng nói thêm nói bớt gì cả. Lập có tài kể chuyện. Những chuyện dân dã thường ngày, chuyện tục, chuyện thanh gì Lập kể cũng hay, cũng hấp dẫn cả. Bây giờ thì Lập quá nổi tiếng, Lập thành quái kiệt trên văn đàn rồi, nhưng nếu chỉ kể riêng truyện ngắn thôi, không nói hay hay dở,  mình bị ám ảnh văn chương bởi  Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Quang Lập. Nguyễn Huy Thiệp sắc sảo, bạo liệt . Còn Nguyễn Quang Lập thì chân thành, trong trẻo đến tận đáy tâm hồn.


Có nhiều nhà văn tài năng và chính tâm. Phùng Quán là một nhà văn tài năng và chính tâm. Nhà văn chính tâm thường có cái bộc trực, yêu ghét rất rõ ràng. Cả trong văn cũng như trong đời. Lập viết về các nhà văn bè bạn, về toàn những những người gần gũi thân thiết, lại viết thật, viết bạo thế, không có cái chính tâm không viết được. Mình cứ thắc mắc mãi, hình như cả Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Quang Lập chưa ai  được cái giải văn học nào. Lạ thế, không giải gì nhưng hỏi có nhà văn nào, cả già lẫn trẻ, cả các nhà văn cây đa, cây đề trong làng văn Việt, ai không từng đọc, từng mê đắm, từng nể phục Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Quang Lập.  Mình hình dung cuộc sống nó như mặt hồ phẳng lặng, người vỗ được nên sóng cuộc đời thì dù có thời sự cách mấy cũng là ghê gớm lắm . Không dám nói như Nguyễn Duy là họ đã chạm được tới kinh mạch của thời đại, nhưng chí ít họ cũng đã làm rung động được cả đám đông. Cái giải thưởng lớn nhất của văn chương lẽ nào lại không phải là tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng trong công chúng? Là buồn thôi, chứ ai chẳng hiểu, giải còn phải thỏa mãn bao nhiêu tiêu chí khác nữa, chứ đâu chỉ là sự yêu thích của người đọc.


Nguyễn Quang Lập còn được nhắc đến như một nhà biên kịch tốp ten của Việt nam. Hỏi thì Lập bảo, viết văn nhuận bút thấp quá, không đủ tiền nuôi con, nên em theo bạn bè viết kịch bản phim kiếm tiền. Hàng loạt kịch bản phim, kịch của Lập  ăn khách, nhưng đáng quý hơn cả là Lập không chạy theo thị hiếu công chúng mà đưa vào kịch bản những gì mà phim Việt trước đó có nhan nhản như chưởng, như sex. Lập khai thác cuộc sống ở một khía cạnh khác,  ấy là những mất mát, những đau thương trên từng số phận của con người qua chiến tranh, qua những thăng trầm của lịch sử. Dù rất cần tiền nhưng chưa bao giờ Nguyễn Quang Lập viết ẩu, chưa bao giờ hắn “làm tiền” trong văn hay trong kịch cả. Cứ nhìn vào những đạo diễn, những nhà xuất bản, những cơ quan báo chí mà Lập cộng tác, mà Lập nhờ vào đó để viết và sống thì khắc biết điều đó. Thái độ nghiêm chỉnh trong cầm bút cũng chứng tỏ cái chân tài của nhà văn. Không có chân tài không chơi được văn chương một cách nghiêm chỉnh.


Mình gặp lại Nguyễn Quang Lập lần đầu là tại một quán nhậu ở Hà nội. Có Nguyễn Trạng Tạo và một vài người nữa. Không nhớ tên quán nhưng nhớ quán có dàn dây leo rễ rủ thành mành xung quanh. Có nghe nói Lập bị tai nạn nhưng không hình dung được nó ác hiểm đến thế. Một nửa người của Lập gần như bị tê liệt hoàn toàn. Mình đã rớm nước mắt khi nghe Lập kể, em đã định nhảy lầu chết quách cho xong. Nằm một chỗ cả năm trời, khổ mình, khổ vợ con quá nhiều lúc chỉ muốn chết. Em đã bò ra tới tận cửa sổ rồi, chỉ chút xíu nữa là xong thì thằng con ở đâu về gọi bố, thế là ôm lấy con mà khóc, và rồi, thương con quá không chết nữa, mà phải cố sống mà nuôi chúng nó. Mình lục túi có năm trăm đưa Lập. Bảo là tao đọc mày nhiều rồi mà chưa trả tiền. Mình nói cái gì Lập cũng dạ cái, nghe thương quá. Mình hơn Lập gần cả giáp. Lập đâu đấy với tất cả mọi người chứ không riêng gì mình. Cả sau này mình cũng thấy giữa đám đông hâm mộ, Lập vẫn tự nhiên tự tại chứ không kịch như một vài người nổi tiếng khác. Lập quý anh Tường, anh Quán. Chơi gan ruột với bạn bè có cá tính mạnh và luôn được đùm bọc bởi những tấm lòng của bè bạn. Hôm Văn Công Hùng rủ mình đến nhà bọ Lập. Trời mưa lâm thâm, lạnh nhưng mưa không đủ ướt. Đến nơi thì đã thấy Lập ngồi trong cái quán nước chờ. Hùng bảo, nó gửi tiền mua em tập sách. Em muốn trao tận tay cho nó. Đang uống dở chai bia thì Nguyễn Trọng Tạo rủ đi nhậu. Có cô gì ở Pháp về mời tác giả sông quê. Lập bảo, tý nữa đi với em, lúc em bị tai nạn cô này thường gửi thuốc tây từ Pháp về cho em.


Mình đã hết sức ngạc nhiên khi có một tên Tây to đùng vào lễ phép chào thầy Lập. Hỏi thì biết tên này từng học tiếng Việt tại Hà nội và có đến thỉnh thầy Lập về văn học Việt. Lập làm tất cả bằng một tay. Trông cứ tồi tội. Nhưng cái đầu hắn thì quá tuyệt vời. Hắn kể, cứ mỗi lần hắn bị giáng vào đầu thì hắn lại thông minh lên một tý. Lúc nhỏ, hắn dẫm phải lưỡi cuốc bị cán cuốc giáng vào đầu cho một phát, thế là từ chưa biết làm thơ thành biết làm thơ. Và đời giáng vào đầu hắn thêm nhiều lần  đau đớn nữa mới thành ra hắn. Có thể đấy là hắn nói vui thôi nhưng không phải là không có lý. Trời không cho ai tất cả. Trời cho anh cái này thì lại trừ bớt của anh cái kia. Nói trộm, giá phải đổi liệt nửa người mà được thông minh như hắn chắc lắm người dám đổi lắm.


Lập bắt đầu chơi blog từ lúc nào mình không nhớ rõ. Hắn kể là lúc hắn nằm nhà một mình buồn, con gái hắn mới lập cho hắn cái blog chơi cho đỡ buồn. Chẳng ngờ, nhờ blog mà đất nước lại có thêm một nhà báo Nguyễn Quang Lập đại tài. Hắn vốn là một kỹ sư bách khoa về vô tuyến điện, rất nhanh chóng hắn làm chủ cái phương tiện truyền thông hiện đại này để đến với mọi người. Blog Nguyễn Quang Lập nhanh chóng trở thành một blog hot nhất trong thế giới mạng Việt. Người ta nghiện đọc Blog Lập tới mức quên ăn quên ngủ. Cái chất gây nghiện của hắn là khẩu văn. Không biết trước hắn có ai đã làm chưa, nhưng có làm thì cũng đến Nguyễn Quang Lập mới đắc địa, mới thành công vang dội thế. Hàng loạt điệp từ địa phương từ trong xó xỉnh xa xưa quê hắn được hắn biến thành thời thượng ăn khách làm rung động hết cả mọi giới. Con người và cái đẹp nói chung là một sự hợp lý. Mà cái gì hợp lý thì tồn tại. Không ai có thể bắt chước được Nguyễn Quang Lập mà thành công cả. Cái đặc sản văn chương khẩu văn này là của Nguyễn Quang Lập. Cái sáng tạo giọng văn độc đáo này của hắn, cọng với cái tài kể chuỵên bẩm sinh, cọng với cái óc hài hước nghiêm chỉnh của hắn làm bao nhiêu người đang loay hoay tìm cách đổi mới, cách tân văn học phải giật mình. Phải chăng, Nguyễn Quang Lập ban đầu chỉ định đem cái chất quê kiểng, cục mịch sắn khoai của quê mình ra chơi với văn minh hiện đại đất kinh kỳ mà thôi. Chẳng ngờ rằng, khi đặt bên cạnh vàng son muôn tía nghìn hồng nó lại thành ra là thứ đáng xem hơn cả. Không phải trường hợp Nguyễn Quang Lập là mới mẻ gì. Ai chẳng biết Aimatop, Gamzatop của Nga chẳng đã làm được điều đó sao? Văn chương phải đi từ dân tộc mà ra thế giới. Bọ Lập, rồi Quê Choa, những cái tên gọi có vẻ nhún nhường, một thời là biểu tượng của sự “cố đỉn”,  giờ thành ra như mốt thời thượng, và  nhiều người tự hào được thơm lây nhờ Nguyễn Quang Lập.


Nhớ hôm mình họp ở Cà Mau, đã mua vé  bay vào trưa ngày hôm sau. Định sáng mai từ nhà lên thẳng sân bay luôn. Buổi chiều, Văn Công Hùng điện bảo, bác lên Sài gòn chiều nay đi, em có chai Balentin 17, năm triệu rưởi, đã hẹn với bọ Lập với Đỗ Trung Quân chiều nhậu rồi! Nhậu thì nhậu đâu chẳng được. Balentine 17 là cái đinh, nhưng nói nhậu với Nguyễn Quang Lập và Đỗ Trung Quân thì lên ngay. Mình cũng có chai Balentine không biết mười mấy nhưng nó là một lít, quà tết  của con gái, mình xách theo. Từ tàu cánh ngầm lên taxi mình nối máy cho lái xe nói chuyện với Nguyễn Quang Lập. Đường Sài gòn buổi tan tầm chật như nêm cối, taxi len từng mét một. Đến tối mịt mới tới được chỗ nhậu. Mình bảo Văn Công Hùng, uống cái chai của bác đi, để chai của chú biếu Nguyễn Quang Lập mang về uống. Có mỗi con vịt thôi mà ba thằng mình với Huy Đức quất bay hết cả hai chai. Mình và Văn Công Hùng  đón taxi về nhà, sáng không biết ai trả tiền taxi nữa.  Lập bảo mình, em vào trong này khỏe ra nhưng nhậu nhiều quá. Hà nội tuần có một lần, ở đây tuần bảy ngày không hôm nào thoát. Rượu là thứ nước lỏng nó không dán được cái này với cái khác nhưng nó kết dính được người ta lại với nhau thành từng nhóm nhỏ. Nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Trọng Tạo, Ngô Minh, Nguyễn Quang Lập từng kết nhau bằng rượu dốc Hiếu. Rồi nhóm rượu Nguyễn thanh Vân, Nguyễn Quang Lập. Phạm xuân Nguyên kết nhau bằng rượu Votka Hà nội, và vào Nam, rượu lại kết Lập lại với Đỗ Trung quân, Huy Đức, Trần Tiến … Hôm mình hẹn Lập tới quán Dziều Đỏ, Lập bảo em vừa ở đó về, nhưng anh cứ đến đó đi, chốc em tới. Thực ra, Dziều Đỏ không phải do Đỗ Trung Quân làm chủ. Đỗ Trung Quân chỉ giám đốc PR thôi, chủ quán đích thực là vợ chồng một đàn em của Đỗ Trung Quân làm  xây dựng. Bộ đôi này kết với nhau  mở quán  lấy Nguyễn Quang Lập làm mồi nhậu , đặc sản của quán Dziều Đỏ là món Quê Choa. Lập hỏi mình thích uống  gì, Chivas 25 hay Chivas 21? Mình bảo, anh lạy em, anh vừa lĩnh được cái bản quyền triệu sáu, mày uống cái gì anh còn trả được, chứ uống cái đó tao thua rồi! Lập cười, là em mời anh chứ có phải bảo anh trả tiền đâu!. Vậy tý nữa anh trả mồi. Em mời rượu. Chivas bình sành, uống chưa hết chai này Lập đã gọi mang ra chai khác. Mình hoảng, bảo thôi, mày lấy đâu ra tiền mà gọi nhiều thế?  Lập bảo, anh uống đi, của đại gia nó bỏ lại, em bảo cất đó tao uống dần, chứ em  tiền đâu. Ở quán Dziều Đỏ, Lập có riêng một bàn Vip. Lập bảo, bàn này là của em. Không thằng nào được  ngồi ở bàn này cả, kể cả lúc không có em. Từ nhà Lập tới quán Dziều Đỏ đâu có gần. Lập đi nhậu bằng taxi. Mà Lập lên xuống taxi đâu có dễ. Nhiều hôm  vừa về tới nhà, Đỗ Trung Quân lại réo: Không có ông là tụi nó về. Là tôi phá sản. Thế là lại lục tục tới quán. Mình thương Lập quá, bảo biết thế tao không gọi, tội mày. Lập bảo, em bảo chúng nó sắm cho em chiếc chiếu em nằm đây luôn, khỏi phải đi về  cực lắm. Mình cũng là thằng ham vui, cả nể. Bạn gọi là đi. Đêm hôm cũng đi. Không đi là thấy bồn chồn, áy náy. Cứ sau mỗi lần té xe lại thầm hứa là không nhậu nữa. Nhưng có thực hiện được đâu. Lập què quặt thế, không đi chẳng ai trách được. Nhưng  Lập vẫn đi. Và mỗi lần mình đi nhậu về bị vợ mắng, mình lại đem tấm gương Nguyễn Quang Lập ra , vợ im ngay!  


Khi mình cứ xắm nắm định viết đôi điều về Nguyễn Quang Lập, vợ bảo: Ông đọc Nguyễn Quang Lập được bao nhiêu mà đòi viết. Quả thật, trong bộ  sáng tác đồ sộ của Nguyễn Quang Lập mình không đọc Lập được bao nhiêu thật. Bảo mình liệt kê đầu sách của hắn thôi mình đã chịu cứng. Lập viết như bổ củi. Sức nghĩ của hắn thì đáng nể rồi. Không nói. Nhưng mình nghĩ, hắn mổ cò một tay, vừa tác giả, vừa biên tập, vừa kỹ thuật, vừa đọc duyệt bài… tất tật cho tờ báo ngày có tên Quê Choa của hắn thật không sao tưởng  tượng nổi. Mình đồ rằng, nếu Quê Choa mà là tờ báo điện tử của một cơ quan báo chí quốc doanh thì chắc gì hai mươi người đã làm nổi.  Khi Lập, trước đòi hỏi của người hâm mộ, nói rộng ra là của một bộ phận không nhỏ nhân dân yêu tin Lập,  thò chân ra bên ngoài văn chương, đi vào vùng đất của báo chí, của truyền thông, mình đã thấy lo lo. Với nhãn quan sắc sảo của hắn, với bản chất trung thực thẳng thắn của hắn, thế nào cũng có chuyện.  Và quả nhiên, Nguyễn Quang Lập và trang web của mình trở thành mục tiêu tấn công của hacke. Sập rồi lại xây. Xây rồi lại sập. Cứ thế hắn đánh đu với trang web của mình.  Mình mà vậy chắc đã nản bỏ lâu rồi. Mình nghĩ,  giả thử mà vì một lý do nào đó, hoặc do Lập nản mà bỏ trang web của mình  thì buồn biết bao nhiêu. Cứ suy từ mình thôi, ngày nào do bận bịu, do đi đâu xa không vào mạng được, không liếc qua Trần Nhương, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quang Lập được là cứ thấy nhơ nhớ, thiêu thiếu cái gì rồi. Những ngày mà các trang này có trục trặc, mình loay hoay mở đi mở lại, có khi mất cả tiếng đồng hồ. Đúng là nhiều lúc các blogs cá nhân có đụng vào các vấn đề chính trị, xã hội nhạy cảm thật, nhưng mình tin ở độ trong sáng, sự vững vàng về chính trị của các nhà văn này, vả lại, người đọc hôm nay họ tỉnh táo lắm, dễ gì anh viết xằng bậy mà người ta nghe đâu. Hơn nữa, dù các trang báo mạng có thông tin không  chính xác thì thiếu gì kênh để thông tin trở lại. Có sao đâu!


Trước chuyến đi Mỹ, mình hỏi anh Đặng Hữu Trung, một cựu lãnh sự ngoại giao, mang cái gì cho bạn đây? ở Mỹ không thiếu gì cả, nhưng quà thì chỉ có chè, caphê, mình Nghệ Tĩnh thì mang lạc, sang bên đó anh em rang lạc uống bia với nhau. Ngoài những thứ đã nói đó, mình mang thêm một đặc sản độc đáo nữa, đó là sách Nguyễn Quang Lập. Lập đưa mình chín cuốn. Cuốn nào cuốn nấy như cục gạch, nặng chình chịch. Mình chỉ mang đi có sáu cuốn làm quà.  Ở Mỹ, qua mạng, người ta đọc Nguyễn Quang Lập cả rồi. Mình láu cá, bảo rằng Lập nó tặng anh (chi) cuốn sách. Ông bạn mình cảm động lắm, bảo hôm nào về anh nhớ cầm chai rượu tôi gửi biếu Nguyễn Quang Lập nhé. Báo hại mình tha chai rượu loanh quanh cả nghìn cây số trên đất Mỹ trước khi mang nó về Việt nam cho Lập.


Mình biết Nguyễn Quang Thiều, nhưng không quen, hôm ngồi uống rượu với Trần Ngọc Tuấn Đồng nai, Tuấn gọi cho Thiều rồi đưa máy cho mình nói chuyện, Thiều bảo ông có cái gì gửi cho tôi đi. Thế là lên Tam đảo, mình ngồi kinh doanh Lập. Không biết mình có nên gửi trước cho nó đọc không nhỉ?


Tam đảo ngày 24/7/2012


Tác giả gửi cho Quê choa

Phận đàn bà 2

Mình ra Huế dự liên hoan sân khấu. Cũng còn chẳng háo hức gì liên hoan liên heo, chỉ vì vở Mùa hạ cay đắng của mình từ  1987 hai lăm năm sau mới xuất hiện trở lại, mình muốn ra xem thế nào. Taxi vừa đến khách sạn vừa lúc một con Mẹc cũng trờ tới. Một người nhỏ thó đen thui ăn mặc sang trọng đeo kính trắng mở cửa xe bước ra. Ba bốn người đứng chực ở cửa khách sạn vội vã bước tới vồn vã rối rít bắt tay ông rồi lăng xăng lấy đồ của ông rật rật chạy theo ông. Lại có hai em chân dài, hình như người của khách sạn mang hoa đến tặng ông. Biết ngay đó không đại gia cũng quan lớn, nhìn mặt thấy quen không nhớ là ai.


Chú xe đưa ông chủ vào cầu tháng máy xong, quay ra hồ hởi bắt tay mình, nói cháu tên Thành con ông cu Diện. A anh Diện làng Đông, bạn học với anh Thắng mình. Chú lái xe cười hề hề, nói công nhận chú nhớ tài thiệt. Mình cười lắc đầu, nói cậu còn khen, mình nhớ mãi không ra sếp cậu là ai. Thấy quen mặt lắm nhưng chịu không thể nhớ. Cu Thành nói to giọng đầy hãnh diện, nói dạ đó là tiến sĩ nhạc sĩ nhà thơ Tương Như.  Mặt mình vẫn đực như ngỗng ỉa. Cu Thành ngó trước ngước sau, hạ giọng thì thầm, nói dạ tức là Cu Mèo. Ôi thôi bỏ mẹ rồi, hóa ra là Cu Mèo hi hi.


Không nhớ Cu Mèo hơn mình mấy tuổi. Đại khái khi mình học lớp năm thì anh đã học xong lớp 7 nhưng mình không gọi bằng anh, khi gọi Cu Mèo khi gọi bằng thằng. Con nít trong làng chẳng đứa nào ưa, Cu Mèo cũng chẳng ưa đứa nào. Một mình một chợ, Cu Mèo lang thang từ đầu làng đến cuối làng đi ghẹo gái. Chuyện chị Mai với anh Cu Mèo cả làng Đồng đều nhớ, mình cũng đã viết trong Xóm gái hoang.


Chị  Mai hơi thấp, múp máp, da trắng ngần, đặc biệt chị hát, ngâm thơ đều hay cả. Người thì gọi chị là Châu Loan xóm, người thì gọi Tường Vi xóm. Họp đội, họp xóm, họp đoàn, đám cưới đám hỏi  nhất nhất phải có chị hát mới xong. Mọi người nói Châu Loan mô rồi hè? Chị Mai đứng lên liền, nói đây đây. Người nóí ngâm bài rứa là hết đi Mai ơi. Người nói không không ẻ vô bài nớ, ngâm bài chào sáu mốt đỉnh cao muôn trượng tề.


 Chị Mai thuộc toàn thơ Tố Hữu thôi, mấy bài trong sách giáo khoa chị thuộc sạch. Hỏi nước mình có ai là nhà thơ, chị nói Trần Đăng Khoa với Tố Hữu, hỏi còn ai nữa không, chị nói từng nớ ngâm đã rã họng ra rồi, nhiều chi lắm. Đầu buổi ngâm thơ cuối buổi hát, hoặc ngược lại, khi nào cũng vậy ở đâu cũng vậy. Mọi người nói Tường vi mô rồi hè, chị Mai đứng lên liền, nói đây đây. Người nói hát bài Noọng ơi trăm ngàn nở hoa đi Mai ơi , người nói dở dở  quẹt quẹt, hát nắng toả chiều nay tề. Chị  hát say sưa, miệng hát ngực rung hấp dẫn vô cùng.


Có hai người mê chị, một là anh Toả bí thư chi đoàn, hai là Cu Mèo con trai cu Miễn. Mỗi lần chị Mai hát, anh Toả nhìn miệng chị không chớp, miệng mấp máy, người đu đưa, nói hay hè hay hè; cu Mèo nhóng cổ nhìn ngực chị rung rung, thè lưỡi liếm một vòng, nói đù mạ hát rứa mới hát chơ.Lại thè lưỡi liếm một vòng, miệng thít thít.  Nhưng chị Mai ghét Cu Mèo, chỉ yêu anh Tỏa thôi. Cu Mèo tức lắm, đứng dạng háng chặn đường chị Mai, nói tui thua cu Toả cái chi? Chị nói không, bỏ đi. Cu Mèo lại vượt lên chặn đường, nói tui tên Mèo, xấu phải không? Chị nói không, lại bỏ đi.


Tối cu Mèo trèo lên cây xoan sau hồi nhà chị Mai, dóng mồm xuống cửa sổ nhà chị kêu vơ Mai nời… tui ưng Mai rồi vơ Mai! Vơ Mai nời… cu Toả không bằng bãi cứt trâu, ưng hắn mần chi. Chị Mai đóng sập cửa sổ.Cu Mèo vừa rung cây vừa hát hờn căm bao lũ tham tàn… cu Toả!  Hát chán Cu Mè bắc loa tay hét to, Mờ eo meo huyền Mai! Mờ ai mai huyền Mèo. Tôi nào cũng ầm ĩ, không cho ai ngủ ngáy gì cả.


Buổi trưa nắng nóng chị Mai gánh lúa về, cu Mèo chặn đường, dạng háng nói ưng tôi đi, mai mốt tui làm lái xe tải tha hồ sướng. Chị Mai đang gánh lúa, mệt, nói ẻ vô, bỏ đi. Cu Mèo lại vượt lên trước, đứng dạng háng, nói ưng tui đi, mai mốt bọ tui lên xã, tui làm chủ nhiệm. Chị Mai đánh môi cái bịp, bỏ đi. Cu Mèo vẫn không chịu, lại vượt lên, đứng dạng háng, tụt quần nói, cu tui ri nì, Mai ưng không? Chị Mai vứt gánh lúa, chồm tới túm chim cu Mèo nghiến răng vặn, nói khoe cái cố tổ mi, khoe cái cố tổ mi. Cu Mèo kêu như cha chết.Nhưng từ đó Cu Mèo đi đâu cũng khoe, ní em Mai cầm cu tau rồi, khen cu tau đại chang,  bằng mười cu Tỏa.


Tết năm 1967, làng làm hội diễn văn nghệ ở đình làng. anh Toả chị Mai hát song ca bài Trước ngày hội bắn. Chị Mai mặc váy, cầm cái ô xoay xoay e thẹn, bắp chân trần trắng muốt, cười cái liếc cái, hát ai tin anh nóiAnh Toả mặc áo quần bộ đội, đội  mũ tai bèo, cười cái liếc cái, hát vì sao em nói nghe nào…Bà con nói ua chầu hầu hay hè hay hè. Cu Mèo đứng dậy quát  to, nói hay cái l. mạ bay! Bà con nói ua chầu chầu cu Mèo nói bậy quá hè. Cu Mèo mắt trợn tay chỉ, nói đồ xã viên biết chi! Rồi hát rống lên hờn căm bao lũ tham tàn… Mai Toả!


Mọi người nói ua châù chầu cu Mèo ỷ thế con chủ nhiệm mất trật tự quá hè. Cu Mèo nói đồ xã viên biết chi! Rồi lại hát cu cu Toả ơi, cu cu Toả ơi.. chim mi mô rồi, chim mi mô rồi… đọ tau cái coi. Bà con đòi đưa cu Mèo ra kiểm điểm, cu Miễn nói đồng chí cu Mèo nóng tính, có nói bậy nhưng xuất phát từ tấm lòng yêu thương xã viên nghèo như đồng chí Mai.  Rứa là tốt. Quan trọng là tấm lòng, không quan trọng cái lỗ mồm. Người nói tốt rứa a tốt rứa a, người không nói gì, người nói tốt rứa đo tốt rứa đo.


Ra tết anh Toả đi bộ đội. Cu Miễn đề nghị chị Mai làm bí thư chi đoàn, gánh vác cho người đi xa. Chị Mai nghe nói vậy thì nhận.Cu Miễn gặp riêng chị Mai, nói đồng chí cu Mèo chậm tiến, đồng chí nên gặp riêng nhắc nhở. Cu Mèo tức, nói răng bọ chê  tui chậm tiến? Cu Miễn cười cái hậc, nói tao tưởng mi muốn lấy con Mai. Rồi kéo tai Cu Mèo nói nhỏ như vầy như vầy… Tận dụng thế mạnh đi con.


Tối, chị Mai họp chi đoàn ở kho hợp tác, họp xong chị bảo cu Mèo ở lại nhắc nhở. Cu Mèo đè chị ra hiếp liền. Chị Mai xấu hổ không dám nói ai, chị quyết định quyên sinh. Chị đi một mạch xuống Quảng Thanh, ngồi đúng nơi “ tọa độ lửa” đợi máy bay tới thả bom. Chị không chết, bị một mảnh bom đâm đúng cuống họng, không nói được, nói gì cũng cứ dá da dá da.


Chị Mai ôm áo quần rời làng Đông về Xóm gái hoang ở với mụ Cà và chị Đóc Xấu thế nào, bắt được phi công Mỹ ra sao mình đã kể, có dịp sẽ nhắc lại. Hơn bốn chục năm rồi chẳng ai còn nhớ đến chị. Mình cũng quên. May gặp Cu Mèo bỗng nhiên nhớ lại hết.


Mình hỏi cu Thành, nói cháu có nhớ chị Mai không. Nó cười, nói thím Mai dá da da phải không? Chú muốn gặp mai đi theo cháu. Tiến sĩ nhạc sĩ nhà thơ Tương Như về Quảng Bình cắt băng khánh thành ngôi nhà  tình nghĩa cho thím Mai đó. A, lạ quá, Cu Mèo xây nhà tình nghĩa. Té ra chuyện Cu Mèo- chị Mai kết thúc rất có hậu, hi hi hay thật


Sáng Mai mình nhờ thằng bạn học cấp 1 ở làng Đông đánh xe bám theo xe Cu Mèo về nhà chị Mai. Nghe mình nói về dự khánh thành ngôi nhà tình nghĩa, thằng bạn nhìn  mình như nhìn con bò đực, nói mi điên à. Mình hỏi sao. Nó cười cái hậc, nói mày còn lạ chi Cu Mèo. Xây nhà tình nghĩa hết trăm triệu thì lão bắt tỉnh, huyện hầu rượu cuộc này đến cuộc này đến cuộc khác, nhậu sao cho đủ trăm triệu mới thôi. Mình cười, nói kệ, miễn sao chị Mai có ngôi nhà trăm triệu là tốt rồi.


Nhà chị Mai ở huyện Tuyên, một xóm nghèo ở đầu nguồn sông Gianh. Chả hiểu sao chị Mai mò lên tận đây sống một mình ở nơi heo hút này. Khi mình đến đã thấy quan khách đứng ngồi chật cứng. Chị Mai ngồi hàng ghế đầu, chẳng thấy chị vui vẻ gì, mặt cứng đơ mắt trừng trừng nhìn mọi người. Đến đoạn chủ tịch xã đọc diễn văn cảm ơn Cu Mèo, nói chị Mai có được ngôi nhà hôm nay là nhờ công sức của tiến sĩ nhạc sĩ nhà thơ Tương Như. Chị Mai chồm lên, nói dá da da da. Người ta vội vàng ấn chị ngồi xuống. Mình hơi lạ, được ngôi nhà mới sao chị Mai có vẻ giận dữ đến thế.


 Thằng bạn mình cười hì hì, nói bi kịch bi kịch. Mình hỏi sao. Nó nói mày không biết chuyện chị Mai mất 5 sào đất à. Mình nói không. Nó lại cười hi hì, nói bi kịch bi kịch. Chuyện này làng Đông ai cũng biết, chỉ có mày là không biết. Cũng tại năm bảy lăm nhà mày về Ba Đồn rồi, không biết chuyện này cũng phải. Năm đó chị Mai về làng thì ngôi khu vườn 5 sào của chị bị cha con cu Miễn chiếm dụng. Chị Mai kiện cáo khắp nơi. Chị không có chữ chẳng viết đơn được, nói gì cũng dá da da chẳng ai hiểu gì. Con kiến kiện củ khoai, nói gì cũng dá da da thì kiện cái gì nhưng chị không nản, ba chục năm này chị kiên trì bám theo  Cu Mèo, hễ gặp Cu Mè đâu chị cũng túm áo lão kêu  dá da da. Phiền quá Cu Mè mới thí cho chị cái nhà này đấy. Dứt lời thằng bạn mình cười he he, nói đó, tình nghĩa Cu Mèo là rứa đó.


Vừa lúc Cu Mèo phát biểu. Anh đứng lên nhìn mọi người rưng rưng lại nhìn chị Mai rưng rưng, nói ngôi nhà nay là món quà mọn tôi dành cho chị Mai, người đàn bà đã chịu nhiều đau khổ. Đau khổ lắm các đồng chí ạ. Cu Mèo nghẹn lại như sắp khóc. Mọi người lặng thinh cảm động. Bỗng chị Mai nhảy lên túm áo Cu Mèo, nói dá da da da!... Dá da da! Chị khóc òa day áo Cu Mèo liên tục, nói dá da da da. Mình tưởng Cu Mèo thẹn đỏ mặt, chẳng dè Cu Mèo ôm chầm lấy chị, vỗ vỗ lưng chị nghẹn ngào, nói chị đừng nói lời cảm ơn, đừng nói lời cảm ơn nữa chị Mai ơi.


Mọi người cảm động vỗ tay rần rần.


Nguyễn Quang Lập

Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2012

Có một góc biển đảo ở nhà mình

Phạm Xuân Nguyên


Hồi giữa tháng 5-2012, trước khi lên tàu HQ-571 rời cảng Cát Lái ra Trường Sa, tôi có cuộc uống với các bạn văn.  Biết tin tôi lại được ra với quần đảo thân yêu của Tổ quốc, anh bạn nào cũng cảm thấy thèm muốn được đi, được đặt chân lên phần đất thiêng liêng của Tổ quốc giữa trùng khơi biển cả. Nhà văn Nguyễn Quang Lập, nhà thơ Đỗ Trung Quân, vợ chồng diễn viên Hồng Ánh dặn tôi mang về những viên đá, hòn sỏi, nắm cát của Trường Sa cho các anh để đặt tại nhà mình đặng luôn thấy biển đảo quê hương bên mình, luôn nhắc mình trách nhiệm của một người dân yêu nước.


 Và bây giờ tại căn hộ của nhà văn Nguyễn Quang Lập trong chung cư Hoàng Anh Gia Lai ở Thảo Điền đã có một góc Hoàng Sa - Trường Sa trang nghiêm và gần gũi. Tôi đến nhà anh thắp lên một ngọn nến lung linh, nghe anh kể về từng kỷ vật. Một ống phao lưới của “sói biển” Mai Phụng Lưu gửi tặng. Một nắm cát từ Hoàng Sa chuyển đến. Một viên đá lấy từ đảo Trường Sa Lớn được sư thầy trụ trì chùa trên đảo đề ba chữ Hán “Đức vi bản”. Một cụm đá san hô trông như một tượng đài. Một áp phích quân dân sát cánh giữ biển đảo. Lập kể, ý định làm một góc biển đảo trong nhà mình anh đã ấp ủ từ lâu, cho đến thời gian gần đây khi Trung Quốc âm mưu độc chiếm biển Đông với “đường lưỡi bò” đầy phi lý, ngang ngược thì anh thấy càng phải có sự hiện diện của Hoàng Sa - Trường Sa trong nhà mình. Cho mình trước hết. Cho vợ con mình. Cho bạn bè mình. Khi nhận được những hiện vật của biển đảo gửi đến anh đã rất nâng niu, trân trọng và thuê thợ làm những giá đỡ cho vững bền vật đặt nơi trang nghiêm. Tôi nhìn những hiện vật, tôi nghe tiếng sóng vỗ ngoài khơi vọng vào căn hộ nhà văn, tôi nhìn thấy những đảo xa hiện về, tôi dậy sóng những ngày đêm ra đảo.


 Giờ này, làm sao tôi yên được nỗi niềm Trường Sa. Tàu cá Trung Quốc đã đánh bắt trên vùng biển Việt Nam. Tàu quân sự Trung Quốc đã xuất hiện tại vùng biển Việt Nam. Nhớ lời những người lính biển tâm sự, mỗi khi có tàu lạ xâm phạm lãnh hải mình, tàu CQ (chủ quyền) của ta hú còi ra đuổi, tàu lạ chạy mất nhưng chúng chỉ lẩn khuất đâu đó, hễ có dịp là chúng hiện ra, lại xâm phạm lãnh hải mình. Ức lắm chú ơi, những người lính trẻ ở đảo kêu lên với tôi nhưng mình muốn hòa hiếu, mình nhân nhượng nhưng càng nhân nhượng thì chúng càng lấn tới.



Góc HS-TS trong nhà bọ Lập.


Đá TS của Phạm Xuân Nguyên,


Vỏ ốc HS của hs Trung Dũng,


Cát HS của Mai Thanh Hải,


Phao lưới câu của Mai Phụng Lưu

 Tôi nghe lời người lính đảo như nghe lời Bác Hồ năm nào hiệu triệu toàn dân đánh giặc. Đứng trước góc biển đảo của nhà văn Nguyễn Quang Lập, tôi lại nhớ thêm lời của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, ông nói không thể vin cớ vì hòa bình mà bán rẻ chủ quyền lãnh thổ đất nước. Không dưng mà trong tiếng Việt nơi chốn quê hương lại được gọi là đất nước. Có đất có nước, có lục địa biển khơi, mới thành một quốc gia, mới là thống nhất giang sơn lãnh thổ. Dẫu chỉ một góc nhỏ ở nhà nhưng sớm trưa chiều tối đi ra nhìn lại, người trong nhà lại thấy cả sơn hà, lại thấy mỗi góc biển chân trời cũng là máu xương thịt da mình. Tôi nghĩ, trước đây trong mỗi nhà người dân Việt đều có một góc bàn thờ Tổ quốc, thì nay nên thêm vào đó những hình ảnh kỷ vật của biển Đông, của Hoàng Sa - Trường Sa. Và đài truyền hình trung ương phải nên có một mục cho biển đảo nước nhà trong mỗi chương trình thời sự, ngày nào cũng phát, ngày nào cũng cập nhật. Để cho đồng bào trong nước ngày lại ngày biết được tình hình trên biển khơi thuộc chủ quyền của mình, từ đó càng nâng cao thêm lòng yêu nước và tăng thêm quyết tâm chống lại những mưu mô xâm chiếm biển đảo nước mình.


 Bạn có sẵn lòng làm một góc biển đảo trong nhà mình không?


Theo PL Tp HCM

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2012

Ngôn từ qua khẩu văn Nguyễn Quang Lập


TS. NGUYỄN HOÀI NGUYÊN


1. Dẫn nhập


1.1. Nguyễn Quang Lập đã khẳng định được tên tuổi của mình qua truyện ngắn, tiểu thuyết, viết kịch, làm phim. Nhưng phải đến Kí ức vụn, mà trước đó là blog Quê choa, ông mới trở nên nổi tiếng, được công chúng và giới phê bình đặc biệt chú ý. Từ blog Quê choa đến Kí ức vụn, Nguyễn Quang Lập đã tái cấu trúc kí ức của chính bản thân mình và những người mình từng gặp gỡ, quen biết bằng một hình thức ngôn ngữ văn xuôi mới lạ, hấp dẫn: khẩu văn.


1.2. Hình thức khẩu văn đã xuất hiện trong một số sáng tác của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan,... nhưng phải đến Nguyễn Quang Lập mới trở thành một hình thức văn lạ, một loại ngôn ngữ văn xuôi mới. Văn chương xét đến cùng là một cuộc chơi của mỗi cá tính nên Nguyễn Quang Lập đã chọn cho mình một lối viết riêng. Khẩu văn Nguyễn Quang Lập có sự pha trộn của lối nói dân gian tự nhiên, sinh động với thể văn hồi kí phóng túng, đầy cảm hứng. Khẩu văn Nguyễn Quang Lập là viết theo lối nói, như tác giả đang nói / trò chuyện trực tiếp với người đọc, do đó, đọc Kí ức vụn, ta khoái cảm như nghe những dòng âm thanh đang chạy rần rật, như thấy những con chữ đang cựa quậy trên trang giấy. Bài viết này góp phần làm sáng tỏ đặc điểm khẩu văn Nguyễn Quang Lập.


2. Đặc điểm khẩu văn Nguyễn Quang Lập


2.1. Nhận xét chung


Từ những mảnh vụn kí ức trên chiếu rượu quê choa, sau này, một phần trong số đó gom thành Kí ức vụn, Nguyễn Quang Lập đã khởi xướng một dòng văn học khẩu văn. Qua lối viết như lời kể bằng miệng, từ miệng với những từ ngữ khẩu ngữ thô ráp, những yếu tố địa phương rặt phương ngữ Quảng Bình, vùng phương ngữ Bắc Trung Bộ, thỉnh thoảng lại văng ra những từ thông tục ngổn ngang, bò, chạy, sấp ngửa nhưng lại níu mắt người đọc; câu văn tuồng như lời nói hàng ngày với những trùng điệp, đan lặp, chuồi lẫn đan xen lời dẫn thoại, lời thoại, người thoại,... tất cả định hình một lối khẩu văn Nguyễn Quang Lập. Đó cũng chính là những đặc điểm nổi trội của một hình thức văn xuôi mới lạ, hấp dẫn của Nguyễn Quang Lập.


2.2. Cách sử dụng từ ngữ


Để tạo nên ngôn từ nghệ thuật, nhà văn có thể sử dụng các lớp từ ngữ khác nhau. Cố nhiên, việc khai thác và sử dụng chủ yếu lớp từ ngữ nào là tuỳ thuộc ở kiểu lựa chọn của người viết. Đọc các mẫu kí ức của Nguyễn Quang Lập, chúng ta thấy ông chủ yếu sử dụng các lớp từ ngữ gồm từ khẩu ngữ, từ địa phương và từ thông tục, biến chúng thành những mã thẩm mĩ có sức ám gợi người đọc, tạo nên nét cá tính khẩu văn. Trước hết, chúng ta tìm hiểu lớp từ khẩu ngữ. Từ khẩu ngữ (còn gọi từ hội thoại) là những từ được dùng ở lời nói miệng trong sinh hoạt hàng ngày, nhất là trong đối thoại. Lớp từ khẩu ngữ được Nguyễn Quang Lập sử dụng thường xuyên, dày đặc nhưng có chọn lọc, phù hợp với từng đối tượng cụ thể, gắn với những ngữ cảnh nhất định. Lớp từ khẩu ngữ đã thực sự tạo được những liên tưởng bất ngờ, những hàm nghĩa tinh tế, sinh động, có tác dụng trong việc làm cho đối tượng, sự việc được miêu tả thực hơn, tạo nên những nhận thức mới. Mỗi người đọc, dù khác nhau về tuổi tác, trình độ nhưng khi đọc Kí ức vụn của Nguyễn Quang Lập đều có cảm giác như đang nghe tiếng nói của lòng mình, như đang tiếp xúc với những lời nói quen thuộc hàng ngày, tự nhiên, sinh động. Đó là những từ ngữ dùng để xưng hô thằng, con, mụ, mẹt, thằng cu, anh cu, ông cu,... và cách xưng gọi thằng Á, thằng Tuỵ, thằng Du, thằng Nguyên (Phạm Xuân Nguyên), con Hà, con Sử, con Thuỷ, mụ Cà, mẹt Lạm, cu Cá, cu Đô, thằng cu Hói, anh cu Luật, ông cu Hoi,... một cách bỗ bã, suồng sã nhưng gần gũi thân mật. Chẳng hạn, trong Thằng sứt môi, Nguyễn Quang Lập tái hiện kí ức tuổi thơ với những buồn vui như mình là người trong cuộc: Thằng Hoàn thổi sáo dọc bằng mũi hay cực. Nó cứ ngồi trước nhà con Sử thổi hết bài này sang bài khác. Con Sử thì ngồi ở cửa sổ ngóng ra. Có lẽ nó cũng muốn ra ngồi với thằng Hoàn nhưng sợ ba mạ nó. [2, 13] Còn khi tái hiện kí ức, tác giả tự xưng mình hết sức tự nhiên, tạo được không khí gần gũi thân mật, xem người đọc như những người bạn thân thiết đang trò chuyện với mình. Chẳng hạn, kể chuyện Con ăn ruồi, tác giả mở đầu bằng câu: Đấy là biệt danh của chị Thuận, người cùng thị trấn Ba Đồn, học cùng lớp một với mình. [2, 7]


Trong Kí ức vụn, những từ khẩu ngữ được nhà văn sử dụng như một công cụ lợi hại nhất để kể, miêu tả, tái tạo những mẫu kí ức - chuỗi những câu chuyện khi thì buồn cười hài hước, khi thì thâm trầm xa xót, khi thì kính trọng nể phục, khi thì cảm thông chia sẻ về những con người, những số phận khác nhau đang hiện về trước mắt người đọc. Đó là các từ như: đâm nghiện, đen thui, vàng hoe, trắng bóc, trơn mồm, mót (chồng), buồn thiu, gái gú, gái gẩm, (cười) khậc, (cười) , (cười) xoe xoe, è he, ngon ơ, người ngợm, khoẻ re, oách kinh, ỏm tỏi, lón thón (chạy), trơ mép, chắc ăn, tót (vào), (ngồi) chồm hỗm, há mồm, (nói) lia xia, phim trú, loạng quạng, lêu têu, độp (liền), dở ẹc, tắc tị, lác mắt, tí tớn, giải déo, phục lăn, bố nhắng, hổ lốn,... Các từ khẩu ngữ được đặt vào những vị trí mà những từ ngữ sách vở bóng bẩy không thể thay thế được. Chẳng hạn, kể về công việc của người bán nước chè trước cổng Viện văn học, Nguyễn Quang Lập viết: Năm giờ sáng bà dậy, lọc cọc lạch cạch nấu nước pha chè, xách phích nước lón thón chạy ra quán, lại lón thón chạy vào xách cái xô, lón thón chạy vào xách cái ấm, bê cái ghế, bưng cái thau,... cứ từng thứ một như thế, sáu bảy giờ mới mở quán. [2, 111] Các từ lọc cọc lạch cạch, lón thón trong đoạn văn trên phát huy tối đa khả năng tượng thanh tượng hình mà nó vốn có, lại được nhà văn làm mới về ngữ nghĩa nên có khả năng ám gợi người đọc, giúp người đọc hình dung một bà Thiêm đang hiện diện chuẩn bị cho một ngày mưu sinh được lặp đi lặp lại với những tất bật, lam lũ, nhọc nhằn.


Nguyễn Quang Lập còn sử dụng các tổ hợp từ khẩu ngữ hết sức tự nhiên, tần số cao như: chán ốm, mừng húm, sướng rêm, cười ré, khoẻ re, giỏi cực, hay hè, sướng râm ran, chán mớ đời, trắng gớm hè, trật chỏng vó, sợ bằng chết, nảy đom đóm, hăng máu vịt, mừng tha dép, câm miệng hến, trơ mắt ếch, khoẻ như tru, đập một phát, mặt xanh như đít nhái,... Những kiểu nói lặp từ, những kiểu cấu tạo từ chỉ dùng trong khẩu ngữ hàng ngày xuất hiện dày đặc trong văn Nguyễn Quang Lập: giỏi hè giỏi hè, ừ đo ừ đo, phi công phi keo, sướng cuống cà kê, mừng nha mừng nha, rứa a rứa a, quẹt quẹt ẻ ẻ, thở vô thở ra, trẻ hè trẻ hè, (cười) tít ta tít tít, ê ê trật trật, sai sai ngu ngu, đổi mới đổi méo, bờ lốc bờ leo, cười cái liếc cái, văn nghệ văn gừng, viết sách viết siếc, thủ trưởng thủ triếc, tào lao chi khươn, giới hạn giới heo,.... Chẳng hạn, trong Kí ức năm hào, có đoạn: Mình nhìn đôi núm vú say sưa, nói hay hè hay hè. Nó nói rồi to bằng người lớn tề. Mình nói tởm hè. Nó lườm nói tởm răng mà tởm, phải to bằng người lớn để cho con bú chứ. Mình nhăn răng cười nói tởm. [2, 18] Qua cách dùng các tổ hợp từ bình dân và rất tự nhiên hay hè hay hè, tởm hè, tởm răng mà tởm, nhăn răng cười, nói tởm, người đọc nhận ra tình bạn gắn bó sâu sắc tuổi thiếu thời, một tuổi thơ trong vắt của tác giả, để rồi từ đó nhớ lại những kỉ niệm tuổi thơ của mình.


Bên cạnh lớp từ khẩu ngữ, trong Kí ức vụn còn có sự góp mặt của lớp từ địa phương giàu màu sắc biểu cảm - cảm xúc, có tác dụng làm tinh tế hoá ý nghĩa cho câu văn. Các từ ngữ địa phương thuộc phương ngữ Quảng Bình nói riêng, vùng phương ngữ Bắc Trung Bộ nói chung được sử dụng với số lượng lớn, tần số cao như: bọ (bố), mạ (mẹ), y chang (giống hệt), cạu (rổ), rứa (thế), răng rứa (sao thế), mồm (miệng), mần (làm), ni (này), mi (mày), chi hề (sao thế), nha (nhé), bâu (túi), tra (gác), hà bay (thế sao), trờ (lướt), bụ (vú), tụi bay (bọn bay), đụng sự (có sự cố), con nít (trẻ con), chơ (chứ), tịt (im lặng), phởn (thích thú), chơ răng (chứ sao), nời (này), trốôc (đầu), rị mọ (quê mùa), lòi (thòi), trớ (khạc ra), nớ (ấy), tề (kìa), ở lổ (cởi truồng), mốc xơ (còn lâu), bạ men (lân la), ui ui (ôi ôi), mần răng (làm sao), (đâu), ui xời (ôi trời), cột (buộc), trởn (chừa), quặc (cãi lại), nại (kiện), cù nhằng (chẳng vào đâu), phịa (bịa), trợt mặt (chịu đựng),... Các từ ngữ địa phương được sử dụng hết sức tự nhiên như chính lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân quê ông nhằm bộc lộ cách nghĩ, cách cảm của quê choa, định hình một thương hiệu bọ Lập. Trong Kỉ niệm nhỏ về Võ đại tướng, các từ địa phương đã làm nên giọng điệu cho câu văn: Quý Doãn nói cụ đánh thắng hai đế quốc to đã trợt mặt rồi, mình còn đòi hỏi cái chi nữa. [2, 147] Các từ trợt mặt, chi (gì) thể hiện cách nói thô ráp nhưng quyết liệt, trầm nặng nhưng dứt khoát của người miền Trung gió lào cát trắng, khí hậu khắc nghiệt tự hào về chiến công hiển hách, khẳng định tầm vóc của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cũng có trường hợp, việc dùng từ địa phương phải dựa vào ngữ cảnh mới hiểu được nhưng khi đã hiểu rồi thì thấy khó mà thay thế những từ ngữ ấy bằng từ toàn dân. Chẳng hạn: Phim trường nước ta, thằng có tài thì xón tiền như đái dắt, thằng bất tài giỏi múa mép thì ôm tiền cả mớ, quyết làm giàu trước khi làm phim. [2, 215] Từ địa phương xón, có nơi phát âm són, không có từ toàn dân tương ứng, có nghĩa là bậy ra nhưng rất ít, không đáng kể. Người Quảng Bình, người miền Trung có thể hiểu được nghĩa của từ xón trong câu văn trên nhưng người đọc dựa vào ngữ cảnh cũng có thể hiểu được ý nghĩa của nó. Từ xón ở đây, ngoài thể hiện màu sắc khẩu ngữ cho câu văn, điều quan trọng hơn là thể hiện thái độ bất bình, phản ứng gay gắt của người viết đối với cơ chế duyệt phim, duyệt kinh phí làm phim thiếu công minh của cấp có thẩm quyền ngành điện ảnh.


Nguyễn Quang Lập dùng từ ngữ địa phương khá dày đặc, nhiều từ xuất hiện tần số cao như: sướng rêm, hay hè, ui ui, ui chầu, ui xời, chi hề, y chang, rứa a,... tạo nên ngôn ngữ nhân vật rất khu biệt, rất gần gũi đời thường của những người dân quê choa từ cuộc đời bước vào trang văn của tác giả. Từ ua chầu chầu xuất hiện nhiều lần trong Kí ức vụn và đây là từ của Nguyễn Quang Lập. Từ ua chầu chầu, Nguyễn Quang Lập dùng trong những trường hợp: thể hiện sự ngạc nhiên, nghi ngờ: ua chầu chầu, văn thơ chi mà sớn sác rứa hề? (lời Hoàng Phủ Ngọc Tường), biểu thị một thái độ kinh ngạc: ua chầu chầu, mần chi mà dữ rứa hè? (lời của Trần vàng Sao), bộc lộ tâm trạng vui tươi: ua chầu chầu, các anh giỏi hè giỏi hè,...


Có trường hợp, Nguyễn Quang Lập dùng cách phát âm miền Bắc không phân biệt n/l để dựng chân dung: Ông Phong Nê đi đái chỉ chửi bậy một câu mà thấu tận tai cấp trên, sắp kỉ nuật rồi. Mình hỏi có can chi không bà, bà gật đầu chép miệng nói tội Phong Nê, mới nàm có vài năm mà bị thay niền. [2, 112]


Khẩu văn Nguyễn Quang Lập còn được thể hiện qua cách dùng từ thông tục. Từ thông tục khác với từ khẩu ngữ ở chỗ không nằm trong từ vựng của ngôn ngữ văn hoá, chỉ được dùng trong lời nói miệng thoải mái, thậm chí thô lỗ, tục tằn. Những từ thông tục có thể được dùng trong ngôn từ nghệ thuật làm phương tiện tu từ tạo nên đặc trưng lời nói nhân vật. Đọc Kí ức vụn, ta thấy Nguyễn Quang Lập sử dụng khá nhiều từ thông tục, nhờ đó, ta nhận ra cái khẩu khí đặc biệt của nhà văn. Những từ ngữ vỉa hè bặm trợn, bẩn thỉu, thậm chí tục tĩu xuất hiện khá nhiều nhưng đọc lại không thấy tục. Đó là biệt tài của Nguyễn Quang Lập, nét đặc hữu trong khẩu văn của ông. Nguyễn Quang Lập dùng từ tục rất tự nhiên, có duyên, không phải ai cũng dùng được, không dễ học được. Chẳng hạn: Tau chơi gái nhiều, chưa thấy con nào hay như con này, mao nó rẽ ngôi, hai xoáy, giống y chang cái đầu hói xếp tau, khơ khơ khơ. [2, 109] Đây là lời kể của thằng Tuỵ trọc phú học đòi, khoe khoang chiến tích chơi gái thật lố bịch.


Có thể nói, văn Nguyễn Quang Lập trong Kí ức vụn là văn bụi. Ông tự gắn nhãn cho mình là nói tục kẻo nhạt miệng. Do đó, ông có ý thức dùng ngôn ngữ của người bình dân bỗ bã, thô lỗ; nói một câu, có khi chỉ dăm tiếng thì có đến vài tiếng tục. Đó là ngôn ngữ của bác thợ cày, anh xe ôm, chú xích lô, ông khuân vác..., họ văng vào nhau thoải mái, không phải để xúc phạm nhau mà cốt cho sướng miệng, nhằm diễn tả chính xác điều mình cần nói. Dùng từ thông tục, Nguyễn Quang Lập như tự sự với đời, muốn làm người trong cuộc mượn cái tục để chuyển tải những vấn đề bức xúc rất thực, rất đời. Trong Kí ức vụn, các từ rất tục như cứt, ẻ, ẻ vô, cứt ẻ, cứt đái, cứt nác (nước), đú má, đ. mạ, rặp, đéo, nắt,... trở thành từ vựng độc quyền của Nguyễn Quang Lập. Nguyễn Quang Lập dùng chúng đúng chỗ, đặt đúng việc nên người đọc không thấy tục mà lại thanh hoá, thành tín hiệu thẫm mĩ ám gợi cảm xúc người đọc. Chẳng hạn: Ông anh họ cười hậc lên một tiếng, nói è he tau biết nổi tiếng là chi rồi, từ ni tau ẻ vô nổi tiếng. [2, 291] Từ thông tục kết hợp với từ phương ngữ trong câu văn trên thể hiện thái độ dứt khoát từ chối nổi tiếng của ông anh họ Phùng Quán.


Trong Kí ức vụn, cái tục cái thanh hoà làm một. Cái tục được sử dụng không phải để tạo cảm giác, gây ấn tượng mà chủ ý của tác giả là tạo cảm xúc thẩm mĩ, gợi cho người đọc những suy nghĩ, triết lí sâu sắc về phận người, kiếp người trong cuộc mưu sinh dâu bể. Cái tục trong văn Nguyễn Quang Lập đã tạo được những phản ứng thẩm mĩ nơi người đọc.


2.3. Cách tổ chức câu văn


Với Kí ức vụn, Nguyễn Quang Lập thí nghiệm một hình thức ngôn từ nghệ thuật mới: văn nói. Hình thức văn nói còn thể hiện ở hình thức tổ chức câu văn. Chiêu thức nổi trội nhất về cách tổ chức câu văn là: câu mà lời thoại diễn ra liền mạch, không có dấu hiệu phân cách giữa lời dẫn thoại, lời thoại, người kể, người thoại. Kiểu câu này được sử dụng trong tất cả các mẫu kí ức, có tính chất chủ đạo. Chẳng hạn: Con Sử đã lấy chồng, đẻ sinh đôi, suốt ngày ôm con ngóng ra cửa. Mình hỏi thằng Hoàn đâu rồi, con Sử nói chết rồi. Mình hỏi sao chết, nó bảo rắn cắn. [2, 15] Bình thường, trong văn viết, ta thấy lời dẫn thoại, người nói, tham thoại, người nghe có sự phân cách rõ ràng bằng những chỗ xuống dòng, bằng dấu câu, nhưng ở Kí ức vụn, các yếu tố trên của một hội thoại chuồi lẫn vào nhau, đan xen liền mạch. Cách tổ chức câu văn của Nguyễn Quang Lập, như trường hợp trên là tổ chức theo kiểu câu văn nói của giao tiếp đời thường tự nhiên, sinh động, thể hiện sự gần gũi, suồng sã, thân mật giữa các nhân vật. Kiểu câu này lại có sự kết hợp dùng từ địa phương, từ thông tục tự nhiên làm cho người đọc như bị hút hồn. Chẳng hạn: Mụ Cà khóc báo cáo xã đội trưởng oan tui quá. Xã đội trưởng nói răng mà oan, mụ Cà khóc rống lên, nói oan oan, các đồng chí toàn cu, không ai hiểu được bướm. Xã đội trưởng đạp bàn quát câm mồm, xã không có trách nhiệm hiểu cái bướm của mụ (Xóm gái hoang). Đọc những câu văn trên, người đọc hình dung câu chuyện như đang diễn ra trước mặt; người đọc như được can dự vào câu chuyện và sẽ không nhịn được cười buộc phải cười thành tiếng. Câu văn Nguyễn Quang Lập gợi nhiều liên tưởng nơi người đọc, tạo được những cảm xúc vừa hài hước, vừa bi thương, cảm thán vô cùng.


Tính chất khẩu ngữ của câu văn Nguyễn Quang Lập còn biểu hiện ở cách tổ chức theo kiểu trùng điệp. Câu văn Nguyễn Quang Lập giống như kiểu nói đan nói lặp trong khẩu ngữ hàng ngày. Chẳng hạn: Không hiểu sao cứ ra khỏi nhà mười bước thì bà mới quay lại gọi Dư ơi, rồi dặn thằng Dư nấu cái này, nấu cái kia, thằng Dư dạ, bà đi thêm mười bước nữa lại Dư ơi, lại dặn lấy cái này lấy cái kia, thằng Dư dạ, bà lại đi thêm mười bước nữa lại Dư ơi, lại dặn mua cái này mua cái kia, thằng Dư dạ, bà đi thêm mười bước nữa, lại dặn trông em thế này cho em ăn cái kia có đến chục lần như vậy rồi bà mới đi hẳn [2, 9]. Câu văn dài lê thê, trùng lặp một cách cố ý nhằm tạo âm điệu nặng nề, buồn tẻ như chính sự bế tắc, cùng quẩn của phận người.


Nhiều trường hợp, câu văn được lặp đi lặp lại và chỉ được làm mới vài khía cạnh nội dung. Chẳng hạn, trong Kí sự vỉa hè có đoạn: Cô điếm già cười rích rích, bóp ông biết rồi cái, nói nhà mình không ngăn vách, cứ thông thống. Ông biết rồi vỗ cô điếm già cái bép, cười khé khe khe, nói nhà này toàn đui mù ngăn vách làm gì. Cô điếm già lại cười rích rích, bóp ông biết rồi cái, nói dưng mà ló cứ đi qua đi lại, xí hổ chết. Ông biết rồi vỗ cô điếm già cái bép, cười khé khe khe, nói sư bố cái này mà biết xấu hổ, bọn đui mù sáng mắt cả rồi. Cô điếm già cười rinh rích, nói mau ôi mau, ông biết rồi cười khé khe khe, nói hay nhẩy hay nhẩy. Ta thấy, các yếu tố hội thoại chuồi lẫn vào nhau kết hợp với kiểu câu trùng lặp có ưu thế là thu hẹp khoảng cách giữa người đọc và người viết; người đọc như đang đối diện với tác giả, như là người trong chuyện, đến khi hết chuyện thì mới sực tỉnh. Các câu văn trùng lặp này, Nguyễn Quang Lập đã bê nguyên xi câu nói hàng ngày vào các tác phẩm của mình. Trong nhiều trường hợp, kiểu câu này có tính thẩm mĩ cao. Chẳng hạn, trong Kí ức năm hào, Nguyễn Quang Lập viết: Khi đó mình không khóc, mình nhớ như in khi đó mình không khóc. [2, 19] Có lẽ, ai đọc đến đây cũng nhận ra, qua âm điệu của câu văn, Nguyễn Quang Lập đang khóc và nước mắt làm nhoè trang kí ức kể về cái chết thương tâm của người bạn gái tuổi thiếu thời.


3. Kết luận


Từ tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng đến Kí ức vụn, Nguyễn Quang Lập tỏ ra từng trải hơn, chín chắn hơn, hóm hỉnh hơn và thâm thuý hơn. Thị trấn Ba Đồn cùng với lời ăn tiếng nói, tính khí, cốt cách rặt bọ hiện rõ mồn một trong từng trang Kí ức vụn, làm nên một thương hiệu Nguyễn Quang Lập: viết văn mà như nói trên chiếu rượu để khẩu ngữ hoá, tự do hoá ngôn từ nghệ thuật. Với Kí ức vụn, Nguyễn Quang Lập đã chọn cho mình một lối đi riêng, thể hiện sự tự do trong sáng tạo, và chỉ khi có tự do sáng tạo mới đem lại quyền dân chủ cho nhà văn và người tiếp nhận. Với "món ăn" mới lạ này, khẩu văn Nguyễn Quang Lập đã tạo nên một hiện tượng ngôn từ độc đáo, làm phong phú thêm bức tranh ngôn ngữ tiếng Việt.


Theo Vietlex


TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN


[1] Trần Đăng Khoa, Kí ức vụn mà không vụn, Văn học và tuổi trẻ, S. 2, 2009.


[2] Nguyễn Quang Lập, Kí ức vụn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2009.


[3] Nguyễn Thành Nhân, Nguyễn Quang Lập đắt sô... nói tục, www.thanhnien.com, 27-11-2009.


[4] Đỗ Cao Sang, Kí ức vụn và dòng văn bạch thoại, www. Blog Quê choa, 12-4-2009.


Nguồn: Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư. Số 4 (18), 7-2012.

Được lòng dân, mất lòng quan

Câu chuyện ông Nguyễn Bá Thanh Chủ tịch HĐND TP Đà Nẵng làm cho các giám đốc sở  "toát mồ hôi hột" trong các phiên chất vấn là đề tài được bàn tán sôi nổi nhất trong tuần qua. Cái cách truy tận gốc không khoan nhượng: “Tôi hỏi bao giờ có điện thì trả lời, thế thôi. Trả lời nổi không?"; Lối chất vấn chất vấn đốp chát ông ông tôi tôi cắt ngang lời thẳng thừng:“Ông lo giải quyết trước mùa mưa, không có nói ú ớ gì hết.”;sự chỉ trích không một chút vị nể, chẳng sợ mất lòng ai: “Giám đốc Sở phải chịu trách nhiệm về việc chậm trễ dự án chứ không phải nói lơ mơ, đổ cho chỗ này chỗ kia!”… chẳng những dân chúng không chê trách mà còn tấm tắc khen ngợi.


 Tuy nhiên không hiếm người chỉ trích ông Nguyễn Bá Thanh về thói gia trưởng, lối ăn nói vô nguyên tắc, bất lịch sự và kẻ cả.  Một nhà báo đã lớn tiếng nói rằng: “Ông Nguyễn Bá Thanh làm như thế này thì rất được lòng dân, nhưng ông quên mất Chủ tịch Hội đồng Nhân dân chỉ là người điều khiển phiên họp, dành thời gian thích đáng để các đại biểu chất vấn các giám đốc sở, Chủ tịch mà chiếm hết diễn đàn như vậy thì gọi là vua chứ không phải là người lãnh đạo hội đồng. Cho dù phát biểu với tư cách đại biểu, ông Bá Thanh cũng không có quyền mạt sát các giám đốc sở như vậy. Nếu muốn đánh giá các giám đốc sở thông qua trả lời chất vấn thì phải có nghị quyết của HĐND nơi mà ông cũng chỉ có một phiếu.”


Sự chỉ trích không sai, thậm chí rất đúng. Ông Thanh đã lẫn lộn cuộc họp cơ quan, nơi ông là thủ trưởng với kì họp HĐND, nơi ông “ chỉ được một phiếu”. Ông cũng lẫn lộn ngôn ngữ và ứng xử chốn nghị trường và ở ngoài đời, trong cuộc họp và nơi chiếu rượu. Nhưng đa số dân chúng vẫn ủng hộ ông. Những trí thức dày dặn kinh nghiệm nghị trường như Nguyễn Minh Thuyết, Vũ Mão đều hết lời khen ngợi ông. Vì sao thế?


Ấy là vì “ một bộ phận không nhỏ” quan lại ngày nay thừa quan liêu thiếu liêm chính, thừa tư lợi thiếu chí công. Khi đụng sự họ thường  quanh co trốn tránh trách nhiệm, nếu không đổ lỗi cho khách quan cũng vin vào “chủ trương tập thể”. Không hiếm trường hợp họ còn hắt tội sang cả cho dân. Ngôi nhà Đoàn Văn Vườn ở Tiên Lãng- Hải Phòng bị phá nát là một ví dụ. Số quan lại này thoát được tội lỗi, trốn tránh được trách nhiệm đa phần nhờ vào sự cả nể, bệnh dĩ hòa vi quí và thói ngậm miệng ăn tiền của đồng nghiệp, đồng chí và vô số quan lại nghị lại ngày nay. “Đoàn kết”, “ổn định” là yêu cầu bức thiết, tối quan trọng của Đảng bị họ lợi dụng làm chiêu bài nhằm trốn chạy khỏi những sai lầm, những vi phạm do chính họ và phe nhóm của họ gây ra.


Có lẽ vì thế ông Nguyễn Bá Thanh đã chấp nhận cái sự mất lòng quan để đi đến tận cùng sự thật, bất chấp luật lệ phép tắc chốn nghị trường miễn sao lời ông nói, điều ông làm là có lợi cho dân. Ông đã từng nói “ nếu sai mà thấy có lợi cho dân thì vẫn cứ làm”. Ông cũng từng nói:"Bác Hồ nói một câu rất đơn giản là cái gì có lợi cho dân thì kiên quyết làm, cái gì có hại cho dân thì kiên quyết tránh. Anh cứ vận dụng vô là trúng hết."


Hoan hô ông Nguyễn Bá Thanh! Ông đã đúng, rất đúng. Dân vi quí quân vi khinh, quan nhất thời dân vạn đại. Dân còn thì nước còn, chế độ còn. Mất dân, nước có cũng như không, chế độ còn cũng như mất. Đó là một chân lý.


Nguyễn Quang Lập

Phận đàn bà 1

Năm 1975 hòa bình lập lại, nhà mình cũng rời làng Đông về Ba Đồn, từ đó mình ra Hà Nội học đại học rồi đi bộ đội, mãi đến năm 1986 mới quay về làng Đông, thăm lại ngôi nhà xưa. Bây giờ nó đã là khu vườn hoang, cỏ dại cây dại mọc um tùm, là chỗ đi xia của dân trong xóm. Ngày cũng như đêm hễ đau bụng là người ta xách quần chạy ra đấy. Thời này người ta đi ngoài không dùng giấy vệ sinh, chỉ bẻ que chùi, que không có thì chà đít xuống cỏ, cỏ không có thì chà đít lên đất cày cũng xong. Hi hi nhớ lại mà kinh.


 Suốt buổi chiều mình đứng trong khu vườn xưa, mỏi chân lắm nhưng không dám ngồi vì biết bãi cỏ chẳng sạch sẽ gì. Mình đi về cái giếng đào nhà mình, nơi có mấy hòn đá cực to, tính ngồi nghỉ một chút. Cái giếng xưa như cái ao nhỏ sâu mét rưỡi có mạch nước trong vắt, mùa nào nước cũng đầy ắp, nay chả ai dùng cây dứa dại phủ kín bao quanh. Mình vừa tới giếng chợt thấy một bà chừng hơn năm chục tuổi đang tùm hum thò tay xuống giếng vốc nước uống. Lúc đầu mình không biết đó ai, sau bà vốc nước rửa mặt, cái mặt đen nhẻm đầy bùn đất dần biến mất, mình nhận ra ngay mụ Cà.


 Chuyện mụ Cà bỏ làng Đông ra xóm Bàu, tức xóm gái hoang, có lần mình đã kể.


 Mụ Cà lấy chồng lúc 16 tuổi nhưng mãi không có con, chồng mụ chán đời uống rượu say té xuống ao, chết. Khi đó vào năm 1953 mụ Cà mới 21 tuổi, tham gia đội du kích rất tích cực. Đội trưởng du kích khi đó là cu Miễn, rất khen ngợi mụ, họp đội du kích nói đồng chí Cà nợ nước thù nhà, chiến đấu rất hăng say. Mụ Cà dơ tay đứng lên, nói bá cáo tui chỉ nợ nước thôi, không có thù nhà. Cu Miễn lắc đầu, nói Đế quốc Pháp lừa bịp dân ta cho uống rượu say, nhiều người chết trong đó có chồng đồng Cà, thù nhà của đồng chí Cà là ở chỗ đó đo. Mụ Cà tròn mắt há miệng, nói oa rứa a, oa rứa a.


 Cuối năm 1953 Pháp từ Ba Đồn càn lên làng Đông, dân làng bỏ chạy hết, chỉ còn đội dân quân vẫn ở lại giữ làng. Mụ Cà mải bắn địch một hướng, không biết Pháp vào làng theo hướng khác, anh em du kích bỏ chạy cả mụ vẫn không biết. Mụ bị một thằng Pháp xông đến đè mụ trên cát, hiếp. Mụ Cà chống cự quyết liệt, liên tục hô đả đảo đế quốc Pháp. Thằng Pháp khoẻ hơn, đè riết không cho mụ động cựa. Mụ vẫn không sợ, miệng vẫn hô vang đả đảo đế quốc Pháp. Lúc đầu mụ còn hô to, đầy đủ cả câu đả đảo đế quốc Pháp, sau nhỏ dần hụt hơi hơi dần, đã đảo đế quốc… rồi đả đảo đế… rồi đả đảo…Cuối cùng chỉ còn mỗi đả ả ả ả…Xong om.


 Chuyện mụ Cà bị một lính Tây hiếp cả làng ai cũng biết, bàn tán xôn xao. Cu Miễn họp đội du kích phát động căm thù. Cu Miễn nói đồng chí Cà kể lại cho anh em nghe. Mụ Cà nói kể cái chi? Cu Miễn nói kể việc đồng chí bị giặc Pháp hiếp ra răng. Mụ Cà nói thì cũng giống như lẹo chắc, nhưng đây là hiếp. Rứa thôi, chi mà kể. Đồng chí Cu Miễn không biết lẹo chắc à? Cu Miễn nói đồng chí Cà nghiêm túc vào, hiếp khác với lẹo chắc. Mụ Cà nói nhưng tui không biết kể chi hết. Cu Miễn nói ví dụ giặc Pháp đè đồng chí xuống, xé áo quần đồng chí rất dã man. Mụ Cà nói đúng rồi rất dã man. Tui chống cự rất quyết liệt, vừa chống cự vừa hô đả đảo đế quốc Pháp. Cu Miễn mừng rỡ, nói rứa đo rứa đo, đồng chí kể tiếp đi. Mụ Cà nói chỉ rứa thôi, biết kể chi nữa. Cu Miễn nói lúc đầu răng, cuối cùng ra răng cứ rứa mà kể. Mụ Cà hỏi kể thiệt a? Cu Miễn nói có răng đồng chí cứ kể rứa. Mụ Cà nói bá cáo các đồng chí lúc đầu hắn đâm một phát tui chửi rất hăng, sau hắn đâm nhiều quá, sướng rồi hết chửi. Mọi người cười, vỗ tay ầm ầm, nói ua chầu chầu hay hè hay hè. Cu Miễn tức, đập bàn chỉ tay mụ Cà quát, nói phản động! Bắt mụ ni trói lại cho tui. Mọi người ngơ ngác không hiểu sao.


 Cu Miễn lên giọng chém tay, nói mụ ni hợp tác hủ hoá với giặc Pháp, rứa mà các đồng chí không hiểu còn vỗ tay hoan hô. Mất lập trường rồi các đồng chí ơi! Mụ Cà đứng bật dậy, nói đồng chí Cu Miễn nói rứa oan tui. Cu Miễn đập bàn chỉ mặt mụ Cà, nói mụ Cà kia, tui không đồng chí với mụ. Mọi người nói ua chầu chầu đồng chí cu Miễn nóng quá. Cu Miễn thổi còi cái roẹt hô to, nói cả trung đội đứng dậy, nghiêm! Tôi quyết định đuổi mụ Cà ra khỏi trung đội dân quân. Từ nay không được ai kêu mụ Cà là đồng chí, rõ chưa? Cả trung đội đập chân ưỡn ngực hô rập ràng, nói rõ!


 Đáng lẽ mụ Cà im lặng không kiện cáo gì thì mọi chuyện cũng qua. Nhưng mụ tức, mụ gặp xã đội trưởng kiện đi kiện lại, nói tui không hủ hoá, giặc Pháp hiếp tui thiệt. Xã đội trưởng nói bị giặc Pháp hiếp, đồng chí có căm thù không? Mụ Cà nói bá cáo xã đội trưởng có căm thù. Xã đội trưởng nói căm thù răng lại nói sướng? Mụ Cà nói bá cáo xã đội trưởng tui không sướng. Cu Miễn nói mụ đừng có chối, mụ nói sướng, cả trung đội nghe rõ ràng. Mụ Cà nói tui không sướng. Cu Miễn nói mụ có nói sướng không, mụ Cà nói có, tui có nói sướng. Cu Miễn nói đó, mụ công nhận rồi đó, hết kêu oan nghe. Mụ Cà nói bá cáo xã đội trưởng tui vẫn oan. Xã đội trưởng nói đồng chí Cà nói hay, vừa kêu sướng vừa kêu oan là răng? Mụ Cà nói tui căm thù giặc Pháp, nó hiếp tui, tui không sướng, tại bướm tui sướng chứ tui không sướng. Mọi người cười, vỗ tay ầm ầm, nói ua chầu chầu hay hè hay hè.


 Xã đội trưởng tức, đập bàn quát, nói bậy bạ, dung tục, phản động! Rứa mà các đồng chí còn cười được à. Mất lập trường! Mụ Cà khóc, nói bá cáo xã đội trưởng oan tui quá. Xã đội trưởng nói oan răng mà oan! Mụ Cà khóc rống lên, nói oan oan, các đồng chí toàn cu, không ai hiểu được bướm…Xã đội trưởng đập bàn quát to, nói câm mồm! Xã không có trách nhiệm hiểu cái bướm của đồng chí! Mụ Cà phủi đít quần, nói è he, ẻ vô nói với các đồng chí nữa. Rồi về. Mấy tháng sau đi đâu cũng bị làng xóm chê cười, mụ Cà nói ẻ vô ở làng ni nữa, rồi bỏ ra xóm Bàu ở.


 Từ  đó đến giờ đã hai chục năm, chẳng ngờ gặp mụ Cà ở đây. Mụ Cà cũng nhận ra mình, nói oa chà, con thầy Đạng. Mi đi mô về rứa Lập. Mình chưa kịp trả lời mụ đã nhảy bùm xuống giếng ngụm lặn tha hồ và hét, hét rất to, nói mát lắm vơ làng! Mát lắm vơ làng! Mình biết ngay mụ Cà đã đổ điên.


 Vợ chồng thằng cu Tí con anh Mẹt Vân dựng nhà sát vườn nhà mình, thấy mình về chơi chúng nó chạy ra kéo mình vào nhà, nói anh vô nhà chơi, đứng coi mụ điện làm chi. Mình hỏi sao điên. Thằng cu Tí cười hì hì, nói mụ nhịn qúa hóa điên. Nó kể, nói sau khi xóm Bàu bị bom, mụ Cà chạy lên làng Phù Lưu, năm bảy lăm mới trở về làng Đông. Khi đó mụ chỉ trên bốn mươi, còn ngon lắm, mông bụ còn nẩy lắm. Nhiều người đánh tiếng hỏi mụ làm vợ nhưng mụ chối hết, ai mụ cũng ẻ quẹt ẻ quẹt. Chê cho lắm vào chừ mới ra nông nổi đó. Vợ cu Tí lườm chồng, nói anh không biết thì thôi, tại mụ muốn chứng minh cho làng xóm biết mụ bị Tây hiếp chứ mụ không phải gái hoang như người ta đồn đại, Thằng cu Tí cười cái hậc, nói ngu, nhịn chồng để chứng minh mình là gái đàng hoàng, có ai ngu rứa không. Vợ thằng cu Tí mắt trợn mồm dẩu, nói ngu chi mà ngu. Không nhịn để cả làng nhảy vô hủ hóa à. Vừa lúc bỗng nghe tiếng mụ Cà kêu to, nói vơ làng, ngá l. quá!


 Mình cười phì, chực chạy ra xem. Vợ thằng cu Tí kéo giật lại, nói anh ra đó mần chi, mụ đi xia, chùi đít lên cỏ, cỏ đâm ngứa thì kêu thôi. Thằng cu Tí nhăn răng cười, nói không xia mụ cũng tụt quần chùi đít lên cỏ, khổ thân mấy bà nhịn chồng. Mình hiểu ra cười ha ha, nói hay hè hay hè. Vợ thằng cu Tí lườm mình, nói hay chi mà hay. Mấy người bị tây bắn được khen lên khen xuống, cứu trợ tùm lum. Mụ Cà bị tây hiếp thì khổ rứa đó. Vợ thằng cu Tí bỗng bật khóc, bỏ chạy ra ngoài. Mình hỏi thằng cu Tí, nói vợ mi răng rứa, răng khóc? Thằng cu Tí thở ra, nói nó cảm cảnh đàn bà thì khóc chơ răng. Rồi thằng cu Tí ngồi im, hình như nó chờ đợi điều gì đó.


 Ngoài vườn nhà mình bỗng tiếng mụ Cà rú lên, nói vơ làng, ngá l. quá. Tiếng vợ thằng cu Tí cũng rú lên, vừa rú vừa khóc, nói thím ơi thím đừng kêu nữa nhục lắm. Mụ Cà lại rú lên, vơ làng ngá l. quá. vợ thằng cu Tí cũng rú lên, vừa rú vừa khóc, nói thím ơi thím đừng kêu nữa nhục lắm. Lại mụ Cà rú lên, lại vợ thằng cu Tí rú lên, cứ như thế cho đến khi trời tối vẫn không dứt.


 Thảm thật.


 Nguyễn Quang Lập


 


 

Phim của ai?

Lâu nay tại các liên hoan phim khi nhắc tên một bộ phim người ta thường nói phim này là của đạo diễn kia khiến nhiều người nhầm tưởng phim là của đạo diễn thật. Ngay cả các nhà phê bình điện ảnh, các nhà báo giới thiệu phim cũng mặc nhiên cho rằng phim là tác phẩm điện ảnh của đạo diễn, khi đánh giá thành công hay thất bại của bộ phim họ thường gán cho thành công hay thất bại của đạo diễn. Điện lượt các đạo diễn cũng ngộ nhận luôn phim là của họ, chính họ là cha đẻ của bộ phim, không ai khác.


 Vậy phim có phải của đạo diễn không? Hoàn toàn không, cả phương diện chủ sở hữu tác phẩm lẫn tư cách tác giả của bộ phim.


Về phương diện chủ sở hữu thì phim là của nhà sản xuất. Nhà sản xuất bỏ tiền ra thuê nhà biên kịch viết kịch bản, thuê đạo diễn làm phim. Khi phim ra đời, nhà sản xuất toàn quyền sử dụng phim trong mọi hoạt động kinh doanh và quảng bá, biên kịch và đạo diễn chỉ được một cái quyền duy nhất là quyền hưởng nhuận bút. Cũng như ta xây một cái nhà, chẳng ai bảo đó là nhà của nhà thiết kế hay của nhà xây dựng cả.


Xét về phương diện tác giả thì phim là của một tập thể tác giả, cho dù vai trò của đạo diễn là rất lớn, công sức anh ta bỏ ra cũng rất lớn, có thể nói là lớn nhất, thì anh ta cũng chỉ là một trong các tác giả của bộ phim mà thôi.  Điều đó giải thích vì sao vừa có giải phim vừa có giải cho đạo diễn, và rất nhiều khi phim được giải vàng trong khi đạo diễn chẳng được giải gì sất. Nhìn sang các công trình kiến trúc, kiến trúc sư là tác giả của công trình dù nhiều khi anh ta vẽ nó  chỉ trong một đêm, trong khi tổng công trình sư có thể đổ môi sôi nước mắt cả chục năm nhưng tư cách tác giả của anh ta vẫn là zero.


Vì sao còn tồn động quan niệm phim là của đạo diễn? Điều này có liên quan đến lịch sử điện ảnh. Từ cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, đạo diễn là thống soái. Thời kì đầu nhà sản xuất chính là đạo diễn, về sau nhà sản xuất chỉ là người bỏ tiền ra cho đạo diễn làm phim, họ là nhà đầu tư chứ không là ông chủ. Kịch bản lúc đầu chỉ là những vạch đầu dòng chủ yếu cung cấp ý tưởng và những gợi ý cho đạo diễn, mọi thứ đều do đạo diễn sáng tác tại trận.Về sau kịch bản được viết ra hoàn chỉnh nhưng đó chỉ là kịch bản văn học, nhà biên kịch chỉ cung cấp câu chuyện, nhân vật và các chất liệu văn học cho đạo diễn chế tạo thành tác phẩm điện ảnh. Cho đến thập niên 70 thế kỉ 20 do nhà biên kịch chỉ sáng tác kịch bản văn học nên vai trò của họ rất mờ nhạt, các nhà biên kịch không thể sánh với các đạo diễn. Vì vậy gọi phim là của đạo diễn tuy không đúng lắm nhưng được mọi người mặc nhiên thừa nhận.


Ngày nay khác rồi. Khi mà nhà sản xuất thực sự là ông chủ, can thiệp vào mọi khâu của sản xuất phim, anh ta quyết định kịch bản, trực tiếp thuê quay phim, thuê nhạc sĩ, thậm chí quyết định luôn cả diễn viên thì đạo diễn đã rời ngôi thống soái, vai trò này thuộc về nhà sản xuất. Kịch bản bây giờ cũng đã khác, nhà biên kịch viết kịch bản điện ảnh chứ không phải kịch bản văn học, kịch bản điện ảnh thực sự là bộ phim trên giấy, và nhà sản xuất yêu cầu đạo diễn làm phim đúng theo kịch bản đã phê duyệt, khi đó vai trò đạo diễn bất quá vai trò của một tổng công trình sư trong các công trình kiến trúc. Đó là một sự thật.


 Vì vậy ngày nay khi nghe người ta nói phim này là của đạo diễn kia thì nên hiểu đạo diễn chỉ là người đại diện của bộ phim chứ không phải bộ phim là của anh ta,  đó cũng là cách tôn vinh các đạo diễn, lối tôn vinh hữu danh vô thực. Sự thật này sẽ làm các đạo diễn nổi khùng, nhưng biết làm thế nào khi đó là sự thật .


Nguyễn Quang Lập

Này hỡi ông Hun Sen!

Vẫn biết trong chính trị người ta thường giở trò láu cá, lưu manh để trục lợi. Tình bạn tình đồng chí nào cũng đều được hô hoán lên là “bền vững” là “vĩnh viễn”, kì thực chúng  đều có tính nhất thời và đều có thể bị bán rẻ bất kể lúc nào. Ai có lợi cho ta là bạn ta, đó là triết lý của chính trị. Trong bài Lợi ích dân tộc, bác Nguyễn Sĩ Dũng đã nhắc lại lời thủ tướng Anh từ giữa thế kỉ 19, ông Lord Palmerston: “Nước Anh không có đồng minh vĩnh viễn và không có kẻ thù vĩnh viễn.


Nước Anh chỉ có những lợi ích vĩnh viễn mà thôi”. Đó cũng là phương châm của tất cả các nhà chính trị khi vận mệnh dân tộc được trao vào tay họ.


Nhưng lợi ích vĩnh viễn của CPC là gì để ông Hun Sen buộc phải phản bội lại khối ASEAN, bán rẻ lợi ích sống còn của các nước lân bang cho TQ? Không lẽ chỉ vì 8 tỉ đô “ nợ xấu” với TQ, hay là 2 tỉ đô tiền “ Phông bao” của TQ cho CPC trước thềm hội nghị ASEAN vừa rồi? Không. Đó là món lợi lớn nhưng không thể là lợi ích vĩnh viễn. Rất có thể “lợi ích vĩnh viễn” là thế này chăng: ông Hun Sen mơ tưởng xây dựng một CPC giàu mạnh dựa trên viện trợ  vô điều kiện dài dài của TQ mà 8 tỉ và 2 tỉ chỉ là món lợi lót đường, món tiền đặt cọc cho tương lai CPC trong vòng tay “người bạn lớn"?


Nếu thế thì ông Hun Sen đã sai lầm.


Cái sự “ đánh bạn” của TQ xưa nay vẫn chỉ một cách: buộc ông bạn nhỏ phải phụ thuộc vào “ người bạn lớn”. TQ chỉ viện trợ dài dài khi và chỉ khi nước đó buộc phải hoặc nghèo đói dài dài hoặc rối loạn dài dài. Bắc Hàn là một ví dụ rõ ràng nhất. Nếu hỏi mười người bao giờ Bắc Hàn hết nghèo đói, bảo đảm có chín người sẽ trả lời: ấy là khi Bắc Hàn hết đánh bạn với TQ. Sự thật này vô lẽ ông Hun Sen không biết?


Ông Hun Sen vốn là một sĩ quan của Khơ Me Đỏ. Ông đã “đảo ngũ” bỏ chạy sang Việt Nam cầu cứu. Ông cầu cứu trước hết cho thân phận ông thôi nhưng nhờ đó dân tộc CPC của ông đã thoát khỏi sự diệt chủng tàn bạo bởi Khơ Me Đỏ, ông được ăn trên ngồi tróc nửa thể kỉ nay. Khơ Mẹ Đỏ do chính TQ  dựng nên, bằng những chính sách tàn bạo và ác hiểm chúng đã giết chết gần 3 triệu trong tổng số 7,1 tr người dân CPC. Nếu Việt Nam không tiếc máu xương tiêu diệt bọn Khơ Me Đỏ chắc chắn dân số CPC chỉ còn 1 triệu “công dân ưu tú” như Pol Pot đã từng tuyên bố. Số dân còn lại là công dân của xứ sở một tỉ dân từ “nước mẹ Trung Hoa” sẽ lũ lượt kéo sang. Theo cách sinh nở cấp số nhân thì chừng 100 năm sau, không, chỉ cần 50 năm sau thôi, người CPC chỉ còn là dân tộc thiểu số giữa hàng trăm triệu người dân TQ. Xong om một dân tộc. Cái gọi là “kì mưu” đó đến đứa con nít cũng biết, vô lẽ ông Hun Sen không biết?


Không ai nghi ngờ ông Hun Sen không yêu nước thương nòi. Nhưng việc ông bán rẻ cả khối ASEAN cho TQ, bán rẻ luôn Việt Nam, người bạn đã đổ máu cho dân tộc của ông, đã  kề vai sát cánh cùng dân tộc của ông suốt nửa thể kỉ qua, là một sai lầm ghê gớm. Nếu TQ chiếm được biển Việt Nam, Malaysia, Philipines, Indonesia thì nói như bác Bùi Văn Bồng, “chỉ cần một cái nhón tay nhẹ nhàng thôi là cả đất nước Chùa Tháp huy hoàng tự bao đời nay sẽ về tay Trung Quốc.”


Khi đó thể nào TQ chả dựng nên một Khơ Me Đỏ mới, một Pol Pot mới, để với một “xã hội triệt để,” “xây dựng xã hội cộng sản dựa trên nông nghiệp thuần túy” CPC sẽ chỉ còn 1 triệu “ công dân ưu tú”. Và điều mà nửa thế kỉ trước TQ không làm được sẽ xảy ra: Số dân còn lại là công dân của xứ sở một tỉ dân từ “nước mẹ Trung Hoa” sẽ lũ lượt kéo sang…Điều này đối với TQ còn quí giá gấp vạn lần so với mấy cái mỏ dầu ở Biển Đông.


Đến lúc đó ông Hun Sen nhất định sẽ ân hận và hổ thẹn. Việc bán rẻ khối ASEAN  có ngờ đâu cũng chính là bán rẻ dân tộc CPC vĩ đại của ông. Này hỡi ông Hun  Sen, có phải thế không?


Nguyễn Quang Lập

Nhúm lông

Mình về quê hội trường, vừa chui từ quán cà phê ra thì thấy một người đàn bà ngồi trên trên ô tô, tay vẫy miệng gọi, nói Lập ơi! Phải Lập đó không? Thì ra chị L., bạn học lớp 5 thời mình theo ba mình sơ tán lên ở thung lũng Chớp Ri. Chị L. bây giờ xinh xắn trắng trẻo còn hơn cả thời chị 19 tuổi, thật không ngờ. Chị rất ra dáng đại gia, tay đeo vòng ngọc, cổ quàng dây chuyền mỏ neo chừng hai cây vàng ròng, đi con Mẹc mới cứng, oách kinh.


 Chị vẫn ngồi trong xe bên tay lái, nói Lập lên xe đi. Thấy mình chần chừ không hiểu chị định đưa mình đi đâu, chị lườm cái cười cái, nói lên xe đi, chị không ăn thịt mày đâu mà lo. Chị nói giọng Bắc ngon xớt, cười có lúm đồng tiền tròn vo làm mình cứ chờn chợn không biết có đúng chị L. thật không hay mình đã lầm. Mình nhớ như in xưa chị không có lúm đồng tiền, nói giọng Cao Lao tiếng nào tiếng nấy méo xệch. Bản tính tò mò, mình leo đại lên xe xem chị đưa mình đi đâu, nói chuyện gì với mình.


 Chị đưa mình ra bãi biển Quảng Tùng, tới một nhà hàng khá sang, sát rặng phi lao ven bãi biển. Bà chủ nhà hàng chạy ra, ngực rung bần bật, kéo miệng cười rộng tới mang tai, nói ôi chị, lâu lắm rồi chị mới tới. Xem cung cách biết bà chủ quí hóa chị L. lắm. Nhìn vào nhà hàng thấy nhân viên táo tác hẳn lên, chạy đi chạy lại mặt mày nghiêm trọng cứ y như quan to đến nhà, tự nhiên mình thấy vui vui.


 Chị L. học lớp 5 với mình khi chị 19 tuổi, không phải chị đi học muộn, tại chị đúp nhiều quá. Bạn học cùng vào lớp 5 với chị đã tốt nghiệp cấp ba, vào đại học mà chị vẫn đang học lớp 5. Chị đọc thông viết thạo, cộng trừ nhân chia cũng tốt nhưng không sao giải được toán đố và toán nhà lầu, loại toán giản ước của lớp 5. Ngoài ra bất kì môn nào chị cũng không thuộc bài, kiểm tra toàn dưới điểm trung bình. Hồi đó không có chuyện xin điểm mua điểm, bù lại được đúp thoải mái, Chị L. đúp lớp 5 đến sáu năm vẫn được học như thường.


 Cô giáo chủ nhiệm phân mình và thằng Quí cùng tổ học tập với chị L. để hai thằng kèm cặp chị cho qua được lớp 5. Chị L. nói chị phải cố học cho xong lớp 5 mới được đi bán cửa hàng hợp tác xã. Ở thung lũng Chớp Ri không có mậu dịch quốc doanh, chỉ có cửa hàng hợp tác xã. Khắp thũng lũng có sáu cửa hàng hợp tác xã, chủ yếu bán vải vóc đường sữa, nước mắm ruốc. Nhân viên bán cửa hàng phải học hết lớp 5, cậu chị làm chủ nhiệm hợp tác xã đã hứa với chị rồi, chừng nào chị học xong lớp 5 sẽ chị cho chị bán cửa hàng. Làm nhân viên cửa hàng khác nào chuột sa chĩnh gạo, chị L. mê lắm, khốn thay chị học mãi không xong lớp 5.


 Học với chị L. sướng nhất trần đời, luôn luôn chị cho ăn uống no nê. Hồi đó chẳng có gì, chỉ hai món khoai xéo, sắn lùi thôi, được ăn no là sướng rồi chẳng mong gì hơn. Thực ra chẳng phải kèm cặp chị. Buổi tối mình và thằng Quí xách cặp đến nhà, chị giao cho hai đứa cái cặp sách của chị và một rá khoai xéo hoặc sắn lùi, nói học giúp chị nha, chị đi đây. Nói rồi chị tót ra khỏi nhà. Tụi mình vừa ăn vừa giải toán, làm bài tập sinh sử địa, soạn văn cho chị xong rồi về, thế thôi, tối nào cũng giống tối nào.


 Mình hỏi thằng Quí, nói chị L. đi mô mà tối mô cũng đi rứa hè. Thằng Quí cười khì, nói thằng ni ngu, đi yêu chứ đi mô. Mình hỏi yêu ai, thằng Quí trợn mắt lên, nói oa chà nhiều lắm. Thằng Quí cùng 11 tuổi như mình nhưng khôn hơn rận. Trong khi mình vẫn đinh ninh mẹ đẻ em ở rốn thì nó đã biết người ta đúc em ở đâu, làm thế nào để không có thai. Nó lẻn vào buồng chị L., lấy ra một cái lá to hơn cái quạt mo, nói chị L. đi yêu khi mô cũng mang theo lá ni. Chị lót dưới lưng, rứa là mần chắc thoải mái, không đời mô có nghén. Thằng Quí có nói tên lá nhưng lâu ngày mình quên mất. Sau này vào lính lên Sơn La gặp một ông người Thái, mình có hỏi ông cái lá ấy, ông xác nhận là có. Mình hỏi tên lá, ông giả bộ lắc đầu không biết, nói lá ấy chỉ đàn bà biết thôi, đàn ông không được biết.


 Mình rủ thằng Quí đi rình chị L. xem chị yêu ra sao, thằng Quí nhảy lên, nói đúng đúng, có rứa mà quên mất. Tối đó chị ra khỏi nhà là tụi mình bám theo liền. Chị L. đi vòng vèo men rìa thung lũng, lội quá suối Roóc, chui vào hang đá vôi. Hang này rất rộng, nhiều ngõ ngách, tụi mình mò mãi mới tìm được chỗ chị yêu. Hang tối mò chẳng thấy gì, chị nghe chị hức hức và kêu to, ôi sướng quá bọ ơi. Lát sau người đàn ông đi ra, tụi mình ba chân bốn cẳng chạy về nhà làm bài cho chị. Làm xong rồi vẫn không thấy chị về, thằng Quí rủ mình chạy vào hang đá xem sao. Tới nơi, lại nghe tiếng chị hức hức, lại ôi sướng quá bọ ơi. Nhưng kì lạ, không phải hai cái bóng mà ba cái bóng. Rõ ràng có hai người đàn ông đang yêu chị.


 Mình ghé tai thằng Quí, nói răng chị L. yêu một lúc hai người. Thằng Quí chặc lưỡi, nói biết được. Bỗng có tiếng cãi nhau. Chị L. kêu to, nói hai người sáu chục ( đồng), răng lại bốn chục. Người đàn ông nói tụi anh chỉ có chừng đó, em thông cảm. Chị L. rú lên, nói đưa ngay thêm hai chục, đưa ngay. Hai người đàn ông bỏ chạy. Chi L. tru tréo chửi, nói vơ cha tổ tụi bay nời, ăn không l. tao nha. Mình với thằng Quí nhảy ra, nói ê ê tụi em biết chị làm chi rồi nha. Chị L. sững lại, từ từ khụy xuống trước mặt hai đứa mình, nói chị phải làm rứa để nuôi cả nhà, chị lạy hai em đừng nói với ai hết. Chị chắp tay vái tụi mình như tế sao, vừa vái vừa khóc.


 Bây giờ chị L. đang ngồi trước mặt mình mặt mày tươi rói, nói nửa thế kỉ rồi Lập hè, mau thiệt. Chị bỏ giọng Bắc nói nguyên xi tiếng bọ. Mình cười, nói em sợ nhận nhầm chị vì hai cái lúm đồng tiền. Mắt chị sáng lên, nói hai tỉ bạc đó, phải sang tận Ing Liềng mới làm được. Mình cười, nói chị bây giờ còn nói được tiếng Anh, ghê quá. Chị cười to, nói thằng ni khinh chị rứa bay. Tau bây chừ tuyền quan hệ với ông to bà nậy, phải đổi giọng bọ ra giọng Bắc cho nó sang, thỉnh thoảng nhả ra mấy tiếng Ing Liềng cho người ta nể.


 Mình nói học hết lớp 5 em về quê, không biết chị làm những gì mà giàu thế. Chị nói chị bán cửa hàng hợp tác xã được 13 năm kiếm được một ít, sau người ta bỏ cửa hàng chị đi buôn trầm, rồi buôn vàng, rồi buôn bán bất động sản. Vốn liếng chừng năm bảy chục tỉ, so với người ta là con tép nhưng chị mãn nguyện lắm rồi. Khởi nghiệp bằng một nhúm lông bây giờ được gọi là bà tỉ phú còn đòi chi nữa.


 Chị bóc tôm hùm cho mình ăn, nói nhớ lại chuyện xưa chị cảm ơn em với thằng Quí quá. Hồi đó tụi bay nói ra thì đời chị tàn, không ngóc đầu lên được mô, thiệt đo. Thốt nhiên chị dừng ăn, nhìn mình chằm chằm, nói mi có quen ông Hiệu Minh không. Mình nói có, cũng có gặp anh ấy đôi ba lần. Chị nói hay là mi kể chuyện đó cho ông nớ. Vừa dứt lời chị à một tiếng, nói mà mi biết răng được. Chuyện đó xảy ra mấy năm gần đây. Mình hỏi chuyện gì. Chị cười to, nói chuyện chị tắm với con cháu 10 tuổi. Nó thấy chị có nhúm lông, nói răng dì có mà con không có. Chị nói lớn lên rồi con cũng có. Nhờ nhúm lông ni mà dì nuôi sống cả nhà đó con. Con cháu liền reo lên, nói a rứa thì con muốn lông mọc đầy cả người con luôn. Kể xong chị lại cười, nói cha tổ cái ông Hiệu Minh, cứ như là ổng núp rình sau nhà tắm chị vậy đó. Xong chị lại cười, đôi gò má đỏ ửng, cặp tuyết lê khép khép mở mở, hai lúm đồng tiền tròn vo rung rung giật giật. Tuổi sáu mươi vẫn còn duyên, tiếng cười vẫn có thể làm đàn ông điêu đứng, thật phục chị quá.


 Tối qua Trần Tién gọi mình đến quán Ziều đỏ nhậu chơi. Mình tới nơi bỗng gặp thằng Quí, té ra nó cũng quen Trần Tiến. Mình kể với nó chuyện mình gặp chị L., nói tỉ phú đó nghe đừng có mà đùa, hai đứa mình bây giờ xách dép cho bả không đáng. Thằng Quí nói mày nghe bả nói làm gì mà giàu? Mình nói bả buôn trầm, buôn vàng mà giàu, sau này buôn bán bất động sản càng giàu to. Thằng Quí cười cái hậc, nói đom! Mày lại nghe mồm bả. Mình trợn mắt lên, nói thằng này không tin à bay, bây giờ trong tay bả có mấy dự án, bả quan hệ toàn ông to bà nậy, kinh lắm. Thằng Quí xua tay nhọn mồm, nói đom đom đom! Rồi nó kéo banh tai mình ra, nói nhúm lông nhúm long đấy… ngu ơi!


 Nguyễn Quang Lập