Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014

Trung Quốc phải bỏ yêu sách đường lưỡi bò, chọn đường thương lượng hoà bình

Trần Công Trục- Lê Phúc- Minh Hiển- Thu Lan


 Các tranh chấp trên Biển Đông không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ giữa các nước có liên quan mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của các nước khác, đến hoà bình, ổn định và sự hợp tác phát triển của khu vực và thế giới. 

Việc duy trì hoà bình và ổn định ở Biển Đông là một yêu cầu khách quan, tất yếu, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích chung của các quốc gia tiếp giáp Biển Đông cũng như các quốc gia khác.

Rõ ràng, thương lượng hoà bình là con đường duy nhất để giải quyết các tranh chấp hiện nay. Đây cũng là nội dung của bài cuối trong loạt bài này.

Mọi giải pháp cho vấn đề Biển Đông đều được các nước trên thế giới quan tâm. Việc các cường quốc tự vạch vùng ảnh hưởng bất lợi cho các nước láng giềng nhỏ hơn sẽ thúc đẩy xu hướng tìm kiếm sự cân bằng cần thiết vì lợi ích của các nước nhỏ này. 

Thượng nghị sỹ Mỹ John McCain, cựu ứng cử viên Tổng thống Mỹ của Đảng Cộng hoà cho biết, những căng thẳng ở Biển Đông giữa Trung Quốc với các nước khác cho thấy, Mỹ cần phải gia tăng sự hiện diện trong khu vực này. 

 Ông John McCain nói: “Thời gian gần đây, căng thẳng đã tăng lên trong khu vực. Những căng thẳng đó cần phải được loại bỏ và đàm phán chính là câu trả lời cho vấn đề này. Trung Quốc cần ngồi vào bàn đàm phán với các nước có tuyên bố chủ quyền ở khu vực Biển Đông để đi đến một Hiệp định chia sẽ những nguồn tài nguyên lớn đó và như thế sẽ giúp giảm căng thẳng trong khu vực. Chúng tôi hiện có các đồng minh mạnh trong khu vực, hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự. Hiện Mỹ có căn cứ quân sự tại Australia. Tôi mong muốn được chứng kiến những hợp tác quân sự theo kiểu đó với các nước khác trong khu vực châu Á, có thể là giữa Mỹ và Việt Nam.” 

Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, không dựa vào nước này để chống lại hoặc làm đối trọng với nước kia. Việt Nam quan tâm và sẵn sàng tham gia vào mọi cố gắng song phương và đa phương nhằm duy trì hoà bình, ổn định ở Biển Đông, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và lợi ích chính đáng của các bên liên quan.

Tuyên bố chung về chuyến thăm chính thức CHND Trung Hoa của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam năm 2011 đã nêu rõ: “Trước khi giải quyết dứt điểm tranh chấp trên biển, hai bên cùng giữ gìn hòa bình, ổn định trên Biển Đông, giữ thái độ bình tĩnh và kiềm chế, không áp dụng hành động làm phức tạp hóa hoặc mở rộng thêm tranh chấp, không để các thế lực thù địch phá hoại quan hệ hai Đảng, hai Nước; xử lý các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để ảnh hưởng tới quan hệ hai Đảng, hai Nước và hòa bình, ổn định ở Biển Đông”.

Ngày 7/9 vừa qua, tại Vladivostok, Liên bang Nga, nhân dịp dự Hội nghị thượng đỉnh APEC lần thứ 20, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có cuộc gặp với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào. 

Về vấn đề trên biển, hai bên cho rằng cần kiên trì thông qua đàm phán, đối thoại giải quyết thỏa đáng vấn đề Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, không để vấn đề Biển Đông ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của quan hệ hai nước.

Tại cuộc gặp ở Vladivostok, Liên bang Nga, Lãnh đạo hai nước nhất trí cho rằng, quan hệ hữu nghị truyền thống Việt - Trung được các thế hệ lãnh đạo tiền bối và nhân dân hai nước dày công vun đắp là tài sản quý báu của nhân dân hai nước và cả hai bên đều phải có trách nhiệm kế thừa, giữ gìn và phát huy.
Sau đó, ngày 20/9, trong chuyến tham dự Hội chợ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) - Trung Quốc và Hội nghị thượng đỉnh đầu tư, thương mại ASEAN-Trung Quốc lần thứ 9, tại thành phố Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc gặp Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình nhằm trao đổi những phương hướng lớn thúc đẩy quan hệ hai nước trong thời gian tới. Hai bên nhất trí cho rằng, cần kiên trì giữ gìn hòa bình, ổn định tại Biển Đông, giải quyết thỏa đáng mọi vấn đề thông qua đàm phán hòa bình và xuất phát từ tầm cao chiến lược của quan hệ hai nước. 

 Trước đó, tháng 12/2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu trước Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, đã nêu rõ chủ trương giải quyết tranh chấp trên Biển Đông của Việt Nam: “Phải nghiêm túc thực hiện Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982, nghiêm túc thực hiện Tuyên bố ứng xử của các bên liên quan ở biển Đông (DOC) và các nguyên tắc thỏa thuận mà Việt Nam và Trung Quốc vừa ký kết. Cụ thể là, chúng ta yêu cầu các bên không có những hành động làm phức tạp thêm, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở khu vực này. Các tranh chấp phải giải quyết bằng đàm phán hoà bình, không dùng vũ lực và phải cùng đàm phán với tất cả các bên liên quan. Đây là mong muốn và là lợi ích của tất cả các nước, các bên liên quan, không chỉ của Việt Nam.” 

Vừa qua, tại Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Kinh tế Thiên Tắc và báo điện tử Sina.com đã tổ chức Hội thảo mang tên “Tranh chấp Biển Đông, chủ quyền quốc gia và quy tắc quốc tế”. Tại cuộc hội thảo này, ông Thịnh Hồng, Viện trưởng Viện Kinh tế Thiên Tắc, Trung Quốc cho rằng, nhân dân các nước ven bờ Biển Đông, trong đó có cả người Trung Quốc, đều có vùng biển 200 hải lý rộng rãi, có đủ không gian để phát triển nghề cá, khai thác tài nguyên biển nếu thực hiện đúng Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển: “Khi hoạch định biên giới biển, Trung Quốc cần phải làm theo tinh thần Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, chứ không thể nói là căn cứ theo cái gọi là nhân tố lịch sử. Theo tôi, căn cứ vào Luật Biển mà làm thì nhân dân các nước ven bờ Nam Hải, nhân dân Trung Quốc đều có vùng biển 200 hải lý rộng rãi, có đủ không gian để phát triển nghề cá, khai thác tài nguyên đáy biển.”

Còn theo ông Trương Thử Quang, Giáo sư Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, “nội hàm của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 là phân định, bố cục lại vùng biển, để mỗi quốc gia ven biển đều có thể có 200 hải lý, thuận tiện cho các nước khai thác, sử dụng và quản lý biển, để toàn nhân loại đều hướng tới con đường cùng nhau giàu có. Đó cần là căn cứ cơ bản để chúng ta và các nước chung quanh giải quyết tranh chấp Nam Hải. Nước ta là quốc gia đã ký Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 thì chúng ta cần phải xử lý mọi việc theo tinh thần Công ước, tỏ cho thiên hạ thấy sự thành tín của mình.”

Rõ ràng, giải quyết hoà bình những tranh chấp trong việc xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa trong Biển Đông bằng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 là đáp ứng nguyện vọng hoà bình của nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc, phù hợp với lợi ích của hoà bình, ổn định và hợp tác ở Đông Nam Á, khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới. Đó là con đường đúng đắn nhất.

Vậy giải pháp nào có thể giải quyết cơ bản các tranh chấp này?

Trước hết, các bên phải thống nhất được cách giải thích và vận dụng các tiêu chuẩn để xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia ven biển ở xung quanh Biển Đông như việc xác định hệ thống đường cơ sở ven bờ lục địa, ven bờ các hải đảo xa bờ, hệ thống đường cơ sở quốc gia quần đảo, thống nhất các tiêu chuẩn để tính hiệu lực của các đảo trong việc hoạch định ranh giới biển, thềm lục địa.

Thống nhất được phạm vi biển, thềm lục địa chồng lấn được hình thành từ các yêu sách của các quốc gia ven biển theo đúng các tiêu chuẩn trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.

Thống nhất các tiêu chuẩn xác định phạm vi biển và thềm lục địa của hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, với tư cách là những quần đảo xa bờ, không phải là quốc gia quần đảo vì các đảo ở đây có diện tích rất nhỏ, không thích hợp với đời sống con người, không có đời sống kinh tế riêng.

Thống nhất nguyên tắc pháp lý và thực tiễn quốc tế áp dụng cho việc xác định quyền thụ đắc lãnh thổ quốc gia đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo này.

Nếu yêu sách nào đã đưa ra không phù hợp với những tiêu chuẩn đã được thống nhất thì phải bị coi là vô giá trị. Quốc gia nào đã đưa ra yêu sách đó phải từ bỏ nó với một tình thần thật sự cầu thị, tôn trọng luật pháp và thực tiễn quốc tế, vì lợi ích, hoà bình, ổn định và phát triển của khu vực và quốc tế.
Trong thực tiễn quốc tế, có không ít những tấm gương về trách nhiệm và tinh thần cầu thị của một số quốc gia khi tham gia đàm phán xác định ranh giới biển. Đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc là một vị dụ điển hình.

Theo đó, Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ bằng con đường thoả thuận thông qua thương lượng hữu nghị, trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, có tính đến các hoàn cảnh hữu quan trong vịnh, nhằm đi đến một giải pháp công bằng mà hai bên đều có thể chấp nhận được. Kết quả là ngày 25/12/2000 tại Bắc Kinh, hai nước đã chính thức ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, kết thúc một quá trình đàm phán dài 27 năm. 

Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc ngày 25/12/2000 đã nhấn mạnh: Việc hai nước ký kết “Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Cộng hoà XHCN Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” và “Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa Cộng hoà XHCN Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”, “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ Cộng hoà XHCN Việt Nam và Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” có ý nghĩa lịch sử sâu rộng, sẽ thúc đẩy mạnh hơn nữa trong thế kỷ XXI. Có thể nói rằng, cùng với việc đã và đang giải quyết các tranh chấp trên biển với các nước láng giềng có liên quan, việc ký kết Hiệp định này là bước tiến mới trong việc xây dựng môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, góp phần tích cực vào việc củng cố hoà bình, ổn định ở khu vực và thế giới.
Vì một Biển Đông hoà bình và phát triển, các bên liên quan trong Biển Đông cần tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được trong thời gian qua để trước hết từ bỏ yêu sách đơn phương về biên giới biển với “đường đứt khúc 9 đoạn”. Trên cơ sở đó, cùng nhau tìm được một mẫu số chung, làm cơ sở pháp lý cho mọi diễn đàn giải quyết các tranh chấp có thể có trong thời gian tới. 

Thực hiện được những nội dung này là điều không dễ dàng, thiết nghĩ cần có biện pháp và lộ trình một cách thiết thực. 

 Theo ông Hồ Xuân Sơn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, phương châm có thể áp dụng trong bối cảnh hiện nay là: “Dễ giải quyết trước, khó giải quyết sau”: “Trong thời gian mà đi tìm giải pháp cho vấn đề Biển Đông thì phải duy trì được hòa bình và ổn định. Chúng tôi cho rằng, biện pháp cần thực hiện là những cam kết trong DOC, không làm phức tạp tình hình. Chúng ta sẽ nghiêm túc thực hiện và vận động các nước nghiêm chỉnh thực hiện cam kết này. Tranh chấp lãnh thổ là vấn đề phức tạp, đòi hỏi thời gian dài, chúng ta sẽ giải quyết từng bước, từ đơn giản đến phức tạp.” 

Biển Đông nổi sóng hay yên bình đang là một vấn đề được tất cả các quốc gia trong khu vực và thế giới quan tâm. Nó phụ thuộc vào thiện chí và trách nhiệm chính trị của các bên liên quan, kể cả ở trong khu vực và ngoài khu

Khi quan võ ngồi nhầm ghế quan văn

Hiệu Minh
Làm tướng thì phải dũng mãnh.
Có một vị vua thời xưa lúc ngự triều có hai bên tả hữu, một bên là quan văn, bên kia là quan võ. Khi định nghênh chiến nước nào, vua thường hỏi cả quan văn và quan võ. Quan văn thường là bàn lui, quan võ thích chiến, không chiến làm sao thăng quan.


Thấy quan võ nào bàn lui, vua quát, hãy lấy cho tên này cái váy, mặc vào rồi về quê đuổi gà cho vợ. Đã làm tướng thì phải đánh nhau, không có chỗ cho sự yếu mềm cho người cầm quân bảo vệ đất nước.

Có chuyện khôi hài khác, thời của cựu độc tài Philippines, Fernando Marcos, ông ta từng bắt các tướng mặc váy lòe loẹt để dự sinh nhật. Một quốc gia có tướng mặc váy thì kết cục thế nào, ai cũng rõ. Đế chế tham nhũng và thối nát ấy đã sụp đổ sau vài chục năm.

Thế giới mạng Việt Nam đang bàn tán xôn xao về phát biểu của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh tại Hội nghị An ninh khu vực tổ chức tại khách sạn Shangri-La (Singapore) ngày 31-5-2014.

Tại hội nghị này, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ, Chuck Hagel, điểm mặt chỉ tên, cáo  buộc Trung Quốc “gây bất ổn” trên Biển Đông và gọi đây là hành động “đe dọa quá trình phát triển” của khu vực về dài hạn.

Ông Chuck Hagel cũng nói Hoa Kỳ sẽ “không làm ngơ” khi các nước khác phớt lờ luật pháp quốc tế.
Thủ tướng Nhật Bản, Shinzo Abe, cũng lên tiếng, Nhật Bản sẽ “ủng hộ tối đa” cho các nước Đông Nam Á, trong đó có một số nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc.

“Tất cả các nước cần tôn trọng luật pháp quốc tế. Nhật sẽ ủng hộ tối đa cho nỗ lực của các nước ASEAN trong việc đảm bảo an ninh vùng biển và bầu trời, và triệt để duy trì tự do hàng hải và tự do hàng không. Nhật có kế hoạch đóng một vai trò lớn hơn và chủ động hơn so với thời điểm hiện nay để đảm bảo cho châu Á và thế giới được hòa bình hơn”.

Quốc tế ủng hộ Việt Nam đến thế là cùng. Hoa Kỳ còn mời cả Bộ trưởng Phạm Bình Minh sang Mỹ.
Hơn tuần trước tại Myanmar và Philippines, Thủ tướng Dũng cũng tỏ ra mạnh mẽ khi lên án Trung Quốc có những hành động nguy hiểm ở biển Đông. Ông cũng nói Trung Quốc đã “vu khống” Việt Nam khi đưa tin Việt Nam đâm tàu Trung Quốc đang hộ tống giàn khoan.

Thủ tướng Dũng tuyên bố sẵn sàng đưa vụ giàn khoan của Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Ngoài ra. Ngoài ra, ông còn kêu gọi Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ tiếp tục lên tiếng để phản đối Trung Quốc ở Biển Đông.

Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh dùng từ “ngoan cố” khi nói về Trung Quốc “Chúng ta vẫn tiếp tục các biện pháp đấu tranh ngoại giao. Một trong những biện pháp đấu tranh ngoại giao là giao thiệp trực tiếp với Trung Quốc và cho đến nay đã có 20 cuộc giao thiệp chúng ta kiên quyết đấu tranh và yêu cầu Trung Quốc phải rút giàn khoan và tàu hộ tống ra khỏi khu vực đó.

Đó là lập trường kiên quyết của phía ta.Dàn khoan của Trung Quốc hiện vẫn ở đó và ngày càng tăng cường tàu. Điều này cho thấy Trung Quốc rất ngoan cố, không chịu rút giàn khoan này về.”

Một thứ trưởng Ngoại giao kiêm đại sứ Việt Nam tại Mỹ, ông Nguyễn Quốc Cường, cũng dùng những ngôn từ khá mạnh khi trả lời hãng thông tấn Hoa Kỳ CNN “Chúng tôi không thể chấp nhận những hành động gây hấn. Nhân dân Việt Nam luôn sẵn sàng bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền. Bất cứ nước nào cũng không nên coi thường sự quyết tâm của người Việt”

Báo chí truyền thông gồm 700 tờ, VTV, kể cả Nhân Dân, QĐND đã đăng những bài có ngôn ngữ mạnh mẽ chưa từng thấy kể từ năm 1979 đến nay để nói về sự xâm lấn, âm mưu thâm độc của Trung Quốc. Dân xứ Việt sôi sục vì thảm cảnh ở biển Đông, sẵn sàng chiến đến cùng.

Tướng Thanh tại Shangri-La
Vào hoàn cảnh ấy, người ta trông đợi một bài phát biểu mạnh mẽ, mang tầm của vị đại tướng Việt Nam tại Shangri-La. Nhưng thật bất ngờ, tướng Phùng Quang Thanh lại sử dụng những ngôn từ mà các quan văn hay dùng.

Ông cho rằng  “Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc, về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề  tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông nên đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng như sự việc ngày 1/5/2014”.

Ông còn coi chuyện Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam như mâu thuẫn nội bộ gia đình “Những vấn đề có liên quan đến hai nước thì cần giải quyết song phương. Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia, hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi”.

Đọc toàn văn phát biểu tại đây. http://mnews.chinhphu.vn/Story.aspx?did=200640

Nếu phát biểu này do bên Ngoại giao đọc thì có thể hiểu được, dù tone đó không phù hợp chút nào với hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam đang bị “đồng chí” Trung Quốc xâm lấn và bắt nạt.

So với những lời mạnh mẽ của Bộ Ngoại giao (Bộ trưởng Phạm Bình Minh, Đại sứ Nguyễn Quốc Cường), thì phát biểu của Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lại tỏ nhũn nhặn một cách bất ngờ, ngay cả dân ngoại giao cũng chẳng nghĩ đến.

Cho dù đây là văn bản được Bộ Chính trị duyệt từng chữ, nhưng qua miệng một vị Đại tướng, đọc tại hội nghị quốc tế, trong lúc Việt Nam đang rất cần sự hợp tác trong vấn đề biển Đông để đối phó với Trung Quốc, đất nước này lại một lần nữa bỏ lỡ cơ hội.

Muốn hòa hoãn thì hãy để bài viết ấy cho một vị bên ngoại giao. Một vị đại tướng đàng hoàng chỉ huy hàng triệu quân mà phải xuống giọng trước kẻ xâm lược thì liệu có nên chăng? Có ai tin, tone thế này có tránh được những giàn khoan mới hay không?

Đọc xong bài phát biểu của tướng Thanh, tôi cứ nghĩ mãi, hay là quan võ xứ mình đã ngồi nhầm chỗ của quan văn. Nếu mang chuyện này hỏi vị vua ngày xưa, không biết tiền nhân có nghĩ đến cái váy hay không.

HM. 31-5-2014

Phản biện 6 luận điểm của Ngô Viễn Phú

 Nguyễn Ngọc Già

Luận điểm số 1: Đoạn thứ nhất trong “Tuyên bố lãnh hải”, mà chính phủ Trung Quốc đã công bố vào tháng 9 năm 1958, đã nói rất rõ rằng, phạm vi bao quát trong 12 hải lí của lãnh hải Trung Quốc là thích dụng cho tất cả lãnh thổ của Trung Quốc, trong đó, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.

Công hàm Phạm Văn Đồng đã rất rõ ràng “ghi nhận và tán thành” với tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì trước hết chính là thừa nhận và tán thành chủ trương về lãnh thổ của Trung Quốc, bởi vì chủ trương về lãnh hải có gốc là chủ quyền lãnh thổ, lãnh thổ không tồn tại thì lãnh hải cũng không có căn cứ.


Công hàm Phạm Văn Đồng không đưa ra bất cứ quan điểm bất đồng hay ý kiến bảo lưu nào về Tuyên bố Lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì theo lô-gich, là cho thấy chính phủ Việt nam tán thành với toàn bộ nội dung của Tuyên bố Lãnh hải do chính phủ Trung Quốc đưa ra, trong đó, có bao gồm cả chủ trương “quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc”

Phản biện số 1: Trong tuyên bố của nước có tên Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) tại điểm 1 nói rằng:
"Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Điều lệ này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bờ biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa và các đảo khác thuộc Trung Quốc"
Một khi cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng "ghi nhận và tán thành" toàn bộ "tuyên bố" này là của nước có tên CHNDTH, ông Ngô Viễn Phú buộc phải làm rõ cụm từ "...và các đảo khác". Bởi vì, ông Phạm Văn Đồng không chỉ "ghi nhận và tán thành" các đảo có tên cụ thể mà còn "ghi nhận và tán thành" "các đảo khác". Một "tuyên bố" tầm cỡ quốc gia không bao giờ được phép dùng chữ với ý nghĩa mơ hồ. 

Với tư cách là một tiến sĩ luật nổi tiếng, hẳn ông Ngô không thể và không nên từ chối yêu cầu đảm bảo tinh thần "học thuật""luật học"? Một khi, việc làm rõ này chưa xảy ra, nghĩa là "bản tuyên bố" của nước có tên CHNDTH chưa có đủ căn cứ khoa học để bảo đảm giá trị như tự thân của nó muốn, bởi toàn bộ "bản tuyên bố" là một thể thống nhất, không cắt rời.

Luận điểm số 2: Vào thời gian này, tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp là sự thực, nước Mĩ lại là kẻ thù chung của hai nước Việt – Trung, Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc trên trường quốc tế chính là lí do tình cảm đó. Thế nhưng, trong vấn đề không thể hàm hồ là giao thiệp về chủ quyền lãnh thế như thế, cứ tự nói “ý nguyện” là thế này thế kia, để mà lật lại câu “ghi nhận và tán thành” rành rành trên giấy trắng mực đen, thì trong quan hệ quốc tế vốn trọng chứng cớ văn bản, sẽ không được người ta tin tưởng và công nhận đâu!

Phản biện số 2: Theo trên, thời điểm thập niên 1950, ông Ngô cho rằng "tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp là sự thực..."

Cả hai nước này công nhận lẫn nhau là sự thực. Nước có tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) tuyên bố thành lập ngày 02/9/1945. Nước có tên CHNDTH tuyên bố thành lập ngày 01/10/1949. Cả hai thời điểm "lập quốc" cũng là sự thực. Tuy nhiên, "sự thành lập" của hai quốc gia này không xuất phát từ việc người dân bầu cử tự do và hợp pháp - đây là một sự thực thứ ba.
Do đó, khi ông Ngô đề cập đến chữ "hữu nghị", có lẽ phải nói rõ ràng trước toàn dân Việt Nam và toàn dân Trung Hoa cũng như các sắc dân khác hiện đang sinh sống tại nước có tên CHNDTH (đương nhiên trong đó có cả người Tây Tạng và người Tân Cương) rằng: "Tình hữu nghị đó" là riêng, giữa nước có tên CHNDTH và nước có tên VNDCCH.

Luận điểm số 3: Cách biện luận này có ngầm ý sau: nếu không ở vào hoàn cảnh chiến tranh, nếu không cần sự viện trợ của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc, không phát sinh (sự kiện) công hàm Phạm Văn Đồng. Thế nhưng, loại biện luận như thế này chỉ là miêu tả lại một sự thực đã xảy ra, không thể, dù một chút xíu, phủ định được hiệu lực của công hàm Phạm Văn Đồng.

Thêm nữa, không có bất cứ chứng cớ nào chứng minh việc Trung Quốc đã lợi dụng Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn đang cần sự giúp đỡ của Trung Quốc để dồn ép chính quyền Việt Nam phải nuốt bồ hòn làm ngọt mà thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Bản thân công hàm đã gửi cho chính phủ Trung Quốc và nội dung của nó cho thấy: tất cả đều là quyết định tự chủ tự nguyện của chính phủ Việt Nam.

Nói ngược lại, giả như ở vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, thì từ lập trường dân tộc chủ nghĩa vững chắc và nhất quán của người Việt Nam, chính phủ Phạm Văn Đồng sẽ không gửi công hàm đó cho Trung Quốc, hoặc chí ít thì trong công hàm sẽ bỏ quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ra bên ngoài.

Lại thêm nữa, cộng với chứng cớ là việc trước năm 1975, trong nhiều trường hợp (nói chuyện giữa nhân viên ngoại giao với nhau, bản đồ, sách giáo khoa), Việt Nam đều chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, thì có thể chứng minh rằng, việc thừa nhận trong công hàm Phạm Văn Đồng rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ vốn có của Trung Quốc chính là cách suy nghĩ thực sự của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Phản biện số 3: Dù ông Ngô nói rằng "...không có bất cứ chứng cớ nào chứng minh việc Trung Quốc đã lợi dụng Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn đang cần sự giúp đỡ của Trung Quốc để dồn ép chính quyền Việt Nam phải nuốt bồ hòn làm ngọt mà thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc...", song le, ông lại chấp nhận điều mà ông gọi là "ngầm ý" rằng "...nếu không cần sự viện trợ của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc, không phát sinh (sự kiện) công hàm Phạm Văn Đồng..." và Ngô Viễn Phú tự thân công nhận "...biện luận [đó]... là miêu tả lại một sự thực đã xảy ra...", điều này có nghĩa: VNDCCH, lúc bấy giờ rất "túng thiếu" là điều có thật. Ôi chao! Sự thật mới quan trọng làm sao, phải không tiến sĩ Ngô?

Có khi nào, một người có "của ăn của để" lại cần phải "cầm cố" một tài sản mang giá trị là "bảo vật" được truyền lại nhiều đời không nhỉ? Trong khi đó, chưa chắc "bảo vật" đó là của riêng anh ta mà của cả gia đình giòng tộc, chẳng qua vì anh ta túng quá bèn lén "xách nó" đi... làm bậy. "Tiệm cầm đồ" nào đó, dù biết rõ giá trị (tinh thần thiêng liêng và cả vật chất) món hàng được mang ra "cầm cố" trong lúc "thiếu thuốc", lại vẫn vui vẻ "cầm" với "giá bèo" cùng lãi suất "cắt cổ" thì "tiệm cầnm đồ" đó có vi phạm đạo đức làm người và pháp luật không nhỉ(?). Nếu tiến sĩ Ngô đủ tự tin Hoàng Sa thuộc nuớc có tên CHNDTH, sao ông không tư vấn ngay cho nhà nước có tên CHNDTH giành lấy chủ động kiện ra tòa án quốc tế?

Hẫy nghe nhà luật học nói tiếp: "...chí ít thì trong công hàm sẽ bỏ quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ra bên ngoài...". Một bản "tuyên bố" thống nhất - không thể cắt rời - mang tầm quốc gia, lại được một ông tiến sĩ luật - Viện trưởng (cả một viện nghiên cứu về luật pháp) coi nó như... "một ổ bánh mì", thích thì cắt, khoái thì xé ra "từng miếng" thế sao (?). Tiến sĩ Ngô tỏ ra không chỉ xem thường "tình hữu nghị" mà ông gọi là "sự thực" của nước có tên VNDCCH, nguy hại hơn ông Ngô đang mạ lỵ vào nước có tên CHNDTH mất rồi. Rất tiếc, suy nghĩ như thế, có vẻ không xứng lắm với một tiến sĩ luật (!).

Luận điểm số 4: Trước năm 1975, tức là trước khi chính quyền miền Bắc giành chiến thắng để thống nhất hai miền Nam Bắc, miền Bắc một mực tuyên bố mình là chính thống, là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt nam, và gọi chính quyền miền Nam là “bù nhìn”, là “chính quyền ngụy” phi pháp, cần phải tiêu diệt. Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh). Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ những sự thực lịch sử không thể chối cãi đó, chính phủ Việt Nam hiện nay chính là nhà nước kế tục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây, sau khi chiến thắng và thống nhất hai miền Nam Bắc, lẽ ra phải giữ vững chuẩn tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế, cũng tức là tín nghĩa cho nền chính trị của quốc gia, giữ vững lập trường quốc gia trước sau như một, đằng này, tại sao lại vì lợi ích vốn không nên có, mà “qua cầu rút ván”, bội tín phản nghĩa?!

Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.

Phản biện số 4: Việc một nhà nước không do dân bầu cử tự do và hợp pháp, thừa nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với một nhà nước cũng tương ứng tình trạng như thế, hoàn toàn không nói lên nguyện vọng của nhân dân hai xứ sở Trung Hoa - Việt Nam. 

Thông thường, những nhà nước không chính danh lại thích nhân danh "dân chủ" hoặc liều mạng lấy (đại) tên nước là "cộng hòa nhân dân...". Người Việt Nam có tục ngữ "giấu đầu lòi đuôi".

Nước có tên VNDCCH chiến thắng năm 1975 là sự thực. Không có gì bàn cãi. Tuy nhiên, lẽ nào tiến sĩ luật học Ngô Viễn Phú không biết nhà nước đó đã vi phạm hầu hết và vi phạm thô bạo hiệp định Paris 1973? 

Từ biến cố này, nhà nước có tên "cộng hòa nhân dân Trung Hoa" lẹ tay dùng kế "sấn hỏa đả kiếp" để mà hành động cướp ngay Hoàng Sa của Việt Nam. Lẽ nào một nhà luật học lại không hay không biết điều này? 

Nếu tiến sĩ Ngô đủ tự tin sử dụng thành ngữ Việt Nam: “qua cầu rút ván”, "bội tín phản nghĩa" đối với những tên "thiếu thuốc" lỡ đến "tiệm cầm đồ" gán nợ cho kẻ tham tiền, sao không tiện thể mắng luôn những kẻ nào với lòng tham lam vô độ đã ra lệnh xối đạn vào 74 người lính Việt Nam đang bảo vệ Tổ Quốc của họ, vào năm 1974, tại Hoàng Sa của Việt Nam? "Tín" nào và "nghĩa" gì đây nhỉ? Phải chăng đó là "chữ tín""chữ nghĩa" xuất phát từ sự đồng lõa của đôi bên cái gọi là "nhà nước" không phải do dân bầu lên?

Luận điểm số 5: Tháng 7 năm 1954, các nước tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ đã kí Hiệp định đình chiến cho Việt Nam, trong Hiệp định có qui định rằng “thông qua bầu cử phổ thông tự do, thực hiện việc thống nhất hai miền Nam - Bắc”. Thế nhưng, chính quyền miền Bắc lấy lí do rằng hiệp định này được kí kết dưới sự dàn xếp của chính phủ Trung Quốc, đã làm tổn hại đến lợi ích của Việt Nam, không đại diện cho lập trường của miền Bắc, cho nên ngay từ đầu đã không muốn tuân thủ hiệp định. Tiến triển lịch sử về sau này cũng cho thấy cả chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều không hề có ý tiến hành cuộc tổng tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn quốc thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không đạt được bến bất cứ thỏa thuận làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ.

Luận điểm số 5 ở trên đã bị sự thực lịch sử phủ định, không còn sức thuyết phục nữa.

Phản biện số 5: Đúng như tiến sĩ Ngô nói: "...cả chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều không hề có ý tiến hành cuộc tổng tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn quốc thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không đạt được bến bất cứ thỏa thuận làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ..."

Lịch sử tang thương của Việt Nam cũng là sự thực. Do đó, công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục "có giá trị" bởi cái gọi là "chiến thắng" năm 1975. Liệu nước có tên VNDCCH có thể "thắng cuộc" nếu thực thi nghiêm chỉnh Hiệp định Paris 1973? Những người sẵn sàng "ký và xé" tất cả mọi điều hứa chẳng lẽ là những người mà nước có tên CHNDTH yêu mến và đáng "chơi" cùng với "16 chữ vàng""4 tốt"?

“Tell me who your friends are and I will tell you who you are.” - có lẽ tiến sĩ Ngô hẳn biết câu tục ngữ phương Tây này?

Tác giả cuốn "A Bitter Peace: Washington, Hanoi, and the Making of the Paris Agreement", Pierre Asselin, phó giáo sư lịch sử ở Đại học Hawaii Pacific cho rằng:
"Hà Nội chiến thắng cuộc chiến Việt Nam, đó là điều chắc chắn, tuy nhiên họ cũng không thắng dựa trên các điều khoản của mình, là thắng một cách vô điều kiện.
Việc vi phạm Hiệp định Paris, điều mà phía Mỹ ít nhất đã cố gắng tôn trọng ở mức độ không đưa quân trở lại miền Nam, đã phá vỡ hình ảnh nạn nhân của chiến tranh chỉ muốn độc lập và hòa bình mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã dựng lên hơn một thập kỷ qua. Điều đó, cùng với những tình huống khác, đã làm giảm sự đáng tin của Hà Nội trong mắt thế giới, và một phần nào đó giải thích tại sao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lại bị quốc tế bỏ rơi hồi năm 1980. Hiệp định Paris không phải là một “thắng lợi vĩ đại” của Hà Nội; nó là một sự hòa bình cay đắng và cần thiết để tạo những điều kiện dẫn đến chiến thắng nhanh chóng nhưng đầy rắc rối năm 1975" (trích từ wikipedia)
Một thứ "chiến thắng" không phải xuất phát từ Chính Nghĩa đã đủ đáng xấu hổ với cả thế giới, dám nói chi có quốc gia, mang tên "cộng hòa nhân dân..." lợi dụng hoàn cảnh tan nát của "một gia đình" để mưu lợi. Nhất định những kẻ trục lợi trên đau khổ người khác họ không thể hiểu được từ Hán - Việt: Vô Lương Tâm.

Luận điểm số 6: Có học giả Việt Nam cho rằng đây là chỗ quan yếu nhất để chứng minh công hàm Phạm Văn Đồng vô hiệu, do đó, đây cũng là lí do không thể bác bỏ. Thế nhưng, ở bài này, tôi cho rằng, sự việc thảy đều không chắc như đinh đóng cột như họ nói đâu, có thể phản luận từ hai phương diện: lô-gich pháp luật, sự thực lịch sử.

Thứ nhất, công hàm Phạm Văn Đồng không phải là điều ước ngoại giao, cũng không phải là tuyên bố đơn phương từ bỏ chủ quyền lãnh thổ, nên không cần sự phê chuẩn của quốc hội. Năm 1958, chính phủ Trung Quốc công bố Tuyên bố Lãnh hải, mục đích của nó không phải là tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc chỉ riêng cho một mình Việt Nam. Chính phủ Việt Nam và ông Phạm Văn Đồng đã giao công hàm này cho phía Trung Quốc, cũng không phải là từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của nước mình, mà là, từ xác tín trong nội tâm, đã “ghi nhận và tán thành” chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc. Bởi vì nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ đầu đã thừa nhận “quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc”, về cơ bản, không có vấn đề Việt Nam từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của mình.

Vào thời điểm đó, giữa Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có tranh chấp lãnh thổ, công hàm Phạm Văn Đồng là xác nhận sự thực của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là xác nhận ngoại giao về văn bản mà Trung Quốc đã đưa ra, là thuộc phạm vi quyền hạn ngoại giao của chính phủ Việt Nam, không cần có sự phê chuẩn của quốc hội.

Thứ hai, Việt Nam lúc đó không có quốc hội chính thức, cũng không có hiến pháp chính thức. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành bầu cử toàn dân tại vùng mà mình quản lí được, đưa tới sự ra đời của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời, soạn ra hiến pháp. Thế nhưng, do quân xâm lược Pháp đang từ Hải Phòng tiến về uy hiếp Hà Nội, thời gian ngắn của hòa bình tạm thời đã bị phá bỏ, lại bắt đầu chiến tranh kháng Pháp, dự thảo hiến pháp tuy đã được thông qua nhưng chưa được đem ra công bố. Sau khi sứ mệnh soạn hiến pháp của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” đã hoàn thành, nếu quốc hội chính thức được sinh ra một cách trái luật, thì hoạt động bình thường của quốc hội ấy sẽ càng không có gì để nói đến nữa. Do đó mới có “Quốc hội giao quyền cho chính phủ căn cứ theo nguyên tắc đã xác định của hiến pháp mà thực thi quyền lập pháp”. Tình trạng này kéo dài đến năm 1960. Sau này, phía Việt Nam xác định nhiệm kì của Quốc hội khóa I là từ năm 1946 đến năm 1960, với độ dài nhất là 14 năm, đủ để chứng minh là thời kì bất thường: (quốc hội) tồn tại tương đối khó khăn, chính quyền chưa thể thực hiện được các hoạt động một cách bình thường. Hiến pháp chính thức đầu tiên của Việt Nam là Hiếp pháp năm 1959.

Thông qua khảo sát về lịch sử hiến pháp và quốc hội của Việt Nam, có thể nghiêm túc nói rằng, trước và sau năm 1958, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa có hiến pháp, cũng chưa có quốc hội. 

Chính phủ căn cứ vào qui định của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời mà có được quyền lập pháp, điều đó có nghĩa, trên thực tế, chính phủ có cả quyền lực của quốc hội. Việc chính phủ của ông Phạm Văn Đồng gửi công hàm đó cho chính phủ Trung Quốc là hoàn toàn nằm trong phạm vi quyền hạn hợp pháp của chính phủ.

Phản biện số 6: Những lý luận của tiến sĩ Ngô nhằm phản biện lý luận từ phía nước có tên CHXHCNVN rằng: "Theo nguyên tắc của hiến pháp, tất cả tuyên bố về với chủ quyền lãnh thổ mà chính phủ đưa ra đều phải có được phê chuẩn của quốc hội thì mới có hiệu lực. Công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội để được phê chuẩn, cho nên không có hiệu lực về pháp luật"

Lý luận của Ngô tiến sĩ là một lý luận thuộc phép ngụy biện "lợi dụng chữ nghĩa". Ngô Viễn Phú cho rằng ông Phạm Văn Đồng có toàn quyền quyết định trong việc "xuất bản" ra công hàm mà không cần phải thông qua quốc hội.

Những chữ "quốc hội", "chính phủ", "hiến pháp", "luật pháp", hoàn toàn vô nghĩa không chỉ đối với nước có tên VNDCCH mà còn đối với nước có tên CHNDTH. 

Những khái niệm này cũng trở nên vô nghĩa trong "quan hệ bang giao" của riêng 2 nước này đối với nhau, chỉ một lý do duy nhất: Hai nước có cùng một chế độ - độc tài toàn trị. Một chế độ như thế, thử hỏi "hiến pháp" hay "quốc hội" còn có vai trò gì để cho một tiến sĩ luật mạnh miệng viện dẫn như một "nhà luật học" cần phải hấp thụ văn hóa văn minh và học hỏi thêm từ nền giáo dục nhân bản và khai phóng?

Kết

Tóm lại, 6 luận điểm của tiến sĩ thuộc nước có tên CHNDTH hoàn toàn bị gãy đổ. Dù sao, Ngô Viễn Phú cũng giúp dân tộc Việt Nam và dân tộc Trung Hoa hiểu rõ thêm được tại sao Mao Trạch Đông gọi "trí thức là cục phân".

________________
Bài phản biện này hoàn toàn dựa theo đúng toàn bộ nội dung bằng tiếng Việt của trang dannews.info

Chiếc mặt nạ "trỗi dậy hòa bình" đã rơi

H. Giang- Vân Đỗ
NQL: Mặt nạ rơi, hiện nguyên hình không phải mặt sư tử mà mặt bò. Đây không phải lối nói khi tức giận. Đó là một sự thật.

Tuyên bố “trong máu người Trung Quốc không có gen xâm lược” của ông Tập Cận Bình ngày 15-5 ngày càng trở nên lố bịch khi thế giới tiếp tục chứng kiến những gì giới lãnh đạo Trung Quốc làm đang đi ngược hoàn toàn những gì họ nói.


Không chỉ qua bài phát biểu với Hiệp hội Hữu nghị nhân dân với nước ngoài tại thủ đô Bắc Kinh hôm đó mà trên nhiều diễn đàn quốc tế, Trung Quốc đã nhiều lần trấn an cộng đồng thế giới rằng họ đang theo đuổi sự “trỗi dậy hòa bình”, hàm ý sự phát triển của nước này sẽ không đe dọa đến hòa bình và an ninh của nước khác. Nhưng, nếu đúng vậy thì giới chức lãnh đạo của Mỹ, Úc, Nhật, EU,…đã không phải thay nhau lên tiếng kêu gọi Trung Quốc kiềm chế, chấm dứt khiêu khích và xuống thang căng thẳng ở Biển Đông.

Giờ đây, điều Trung Quốc luôn mong muốn – giữ tranh chấp lãnh thổ trên biển với Việt Nam trong khuôn khổ quan hệ song phương – đã không thể tiếp tục như thế nữa. 

Khi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981, Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế và chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam cũng như chà đạp lên hàng loạt thỏa thuận cấp cao giữa hai nước. Khi triển khai hàng loạt tàu dân sự, quân sự quanh giàn khoan ấy – và đặc biệt khi dùng vũ lực với các tàu dân sự và ngư dân Việt Nam – họ đã vi phạm đến lợi ích của tất cả các nước còn lại: đó là quyền tự do hàng hải. Chiếc mặt nạ đã rơi: trên Biển Đông, sự trỗi dậy của Trung Quốc chẳng hề mang tính hòa bình. Ngược lại, nó đang đe dọa an ninh khu vực, an toàn và tự do hàng hải trong khi phần lớn dòng thương mại quốc tế đi qua vùng biển này. Không chỉ những nước ở gần Trung Quốc mà tất cả những ai có đường hàng hải qua đây, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và xa hơn nữa là Canada, Mỹ,…đều bị tác động trực tiếp. 

Nhìn lại, trước khi giàn khoan Hải Dương 981 xuất hiện trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, quan hệ song phương Việt Nam-Trung Quốc vẫn khá tốt đẹp bất chấp hàng loạt những hành động đơn phương, lấn chiếm Biển Đông trong nhiều năm của Trung Quốc.

“Ít nhất thì mối quan hệ đó cũng ở mức độ còn kiểm soát được” – TS. Hoàng Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao (Học viện Ngoại giao Việt Nam) đánh giá.

Việc đưa giàn khoan vào Biển Đông cũng như hành vi kèm theo của Trung Quốc đã thay đổi toàn bộ bức tranh, thay đổi hoàn toàn nhận thức của người dân Việt Nam về người láng giềng 16 chữ và 4 tốt ấy, vẫn theo nhận xét của TS. Tuấn.

Điều nguy hiểm hơn là Trung Quốc chẳng nề hà gì dư luận quốc tế và phản ứng từ lãnh đạo các cường quốc khác. Họ thậm chí phớt lờ việc thảo luận, trao đổi  – cách hành xử tối thiểu trong quan hệ quốc tế. 

Trước khi xảy ra sự việc này, giữa Việt Nam và Trung Quốc đã thiết lập nhiều kênh liên lạc và trao đổi thông tin ở các cấp khác nhau. Trên thực tế, trong một tháng qua, phía Việt Nam đã cố gắng khai thác mọi kênh giao tiếp để đối thoại với Trung Quốc nhằm xử lý căng thẳng, nhưng tất cả đề xuất và biện pháp đều bị phía Trung Quốc khước từ. 

Thậm chí, cách đây hơn hai năm, hai nước còn thiết lập một đường dây nóng giữa hai bộ ngoại giao với mục đích xử lý kịp thời các vấn đề nảy sinh trên biển. Từ khi căng thẳng bùng phát trên Biển Đông đến nay, đường dây nóng này chưa một lần đổ chuông. “Một số người đã nhận xét rằng, đường dây nóng giờ đã thành đường dây chết” – ông Tuấn nói.

“Trung Quốc đang xói mòn tính tin cậy của mình cũng như tổn hại đến danh tiếng họ trên thế giới.” - TS. Sally Wood, một học giả Úc, đã nhận định như vậy. Có lẽ,  đã đến lúc cộng đồng thế giới phải đặt Trung Quốc vào đúng vị trí để nhìn nhận sự trỗi dậy của nước này. Đó là một kẻ bắt nạt to xác và dối trá. Không hơn. Không kém.

1 tháng giàn khoan và toan tính lộ rõ của TQ

Việt Long
 Hôm nay, 1/6, tròn một tháng kể từ khi TQ hạ đặt trái phép giàn khoan di động Hải Dương 981 sâu trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của VN.

 Ngày 1/5, công ty dầu khí ngoài khơi TQ triển khai giàn khoan di động Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou 981) tại tọa độ 15o29’ Vĩ Bắc, 111o12’ Kinh Đông, thời gian hoạt động được nước này thông báo đến ngày 15/8.


 VN cho rằng, theo Công ước Luật biển năm 1982, vị trí này nằm sâu trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế 200 hải lý của mình nên lập tức lên tiếng yêu cầu TQ chấm dứt ngay hành động trên và rút dàn khoan khỏi vùng biển VN.

Đáp lại, TQ cho rằng đây là hoạt động khai thác tài nguyên bình thường trên vùng biển TQ và tố cáo ngược lại VN là bên gây hấn. TQ đã liên tục tăng số lượng tàu hộ tống, tàu hải quân, tàu hải cảnh, đâm va, bắn vòi rồng vào các lực lượng chấp pháp biển VN.

Vi phạm mang tính khiêu khích

Vị trí giàn khoan Hải Dương 981 định hạ đặt nằm cách bờ biển VN 130 hải lý và đảo Lý Sơn 119 hải lý, cách bờ biển Hải Nam 182 hải lý, cách đá Triton thuộc quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý và đảo Phú Lâm cũng thuộc quần đảo này 103 hải lý.

Theo Công ước Luật biển của Liên hợp quốc UNCLOS 1982 mà VN và TQ đều là thành viên, mỗi nước có quyền có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa tính từ đường cơ sở.

Nếu tính từ bờ biển VN và đảo Hải Nam, khu vực nằm trong vùng chồng lấn đặc quyền kinh tế của hai bên. Tuy nhiên Luật biển lại quy định rõ ràng trong vùng biển chồng lấn, các bên không được có những hành động đơn phương thăm dò khai thác vượt quá đường trung tuyến (hoặc cách đều) mà phải tiến hành đàm phán hoặc có những dàn xếp tạm thời trong khi chờ đợi phân định cuối cùng.

Thực tiễn phân định cho thấy các đảo ít khi được hưởng cùng một hiệu lực như lãnh thổ đất liền. Vì vậy xét từ lý thuyết phân định, trong tương quan giữa bờ biển VN và đảo Hải Nam, khu vực này nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa VN hoặc chí ít cũng nằm về phía VN qua đường trung tuyến.

Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi liên quan đến tương quan giữa bờ biển VN và quần đảo Hoàng Sa.

Đây là quần đảo VN khẳng định đã xác lập chủ quyền từ thế kỷ XVII song lại nằm dưới sự quản lý thực tế của TQ từ năm 1974 sau khi đánh chiếm từ VN Cộng Hòa bằng vũ lực.

TQ đã tuyên bố đường cơ sở cho quần đảo này vào năm 1996 và đá Triton là một trong những điểm nhô ra nhất về phía Nam của đường cơ sở đó.

Tuyên bố này bị thế giới phê phán vì đã áp dụng cách vẽ đường cơ sở quốc gia quần đảo cho một quần đảo đang tranh chấp chủ quyền. Tuy nhiên, TQ luôn cho rằng quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) thuộc về họ, không có tranh chấp, không đàm phán.

Nghiêm trọng hơn, tháng 7/2012, TQ tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa có trụ sở trên đảo Phú Lâm và quản lý toàn vùng biển trong đường lưỡi bò chiếm 80% diện tích Biển Đông.

VN không bao giờ chấp nhận đảo Phú Lâm, đá Triton và các địa vật của quần đảo Hoàng Sa thuộc TQ. Áp dụng điều 121 (3) của UNCLOS 1982, các đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng như Triton sẽ chỉ có lãnh hải 12 hải lý mà không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.

Ngay cả đảo Phú Lâm rộng 200 ha nếu có hiệu lực phân định thì cũng rất nhỏ. Trong phân định vịnh Bắc Bộ, đảo Bạch Long Vỹ 2,5 km2 chỉ được hưởng ¼ hiệu lực. Trong phân định vịnh Thái Lan, đảo Thổ Chu chỉ hưởng 1/3 hiệu lực.

Phán quyết của Tòa án và Trọng tài quốc tế đều khẳng định xu thế các đảo không có hiệu lực tương xứng trong tương quan với đất liền.

Trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền về tài nguyên và quyền tài phán về lắp đặt, sử dụng, duy trì và sửa chữa các công trình thiết bị trên biển.

Vì vậy, việc TQ đơn phương triển khai hoạt động khoan thăm dò khai thác trong vùng biển nước khác được xem là vi phạm mang tính khiêu khích.

Hành động bất chấp của TQ

Tính từ năm 1988, thời điểm xung đột gần nhất giữa VN và TQ, vụ việc này có mấy điểm đáng chú ý.

Thứ nhất, hành động của TQ tỏ ra hung hăng, bất chấp luật pháp quốc tế và các thỏa thuận khu vực nhất.

Thứ hai, phản ứng của VN dù ở mức độ kiềm chế không sử dụng biện pháp quân sự nhưng cũng thể hiện nhanh nhất, đồng bộ nhất, kiên quyết nhất không chỉ trên thực địa.

Lần đầu tiên Thủ tướng VN đã nêu đích danh các hoạt động phi pháp của TQ trong vùng biển VN trước các diễn đàn ASEAN và quốc tế.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng tuyên bố: “VN kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó” .

Thứ ba, dư luận quốc tế phản ứng với hành động của TQ mạnh mẽ nhất, đoàn kết nhất. Các tiếng nói phê phán vang lên từ Washington, EU, Đông Bắc Á và Đông Nam Á.

Thứ tư, ASEAN thể hiện mình là một khối thống nhất trước áp lực chia rẽ của TQ với một tuyên bố riêng của các Ngoại trưởng về Biển Đông, điều chưa từng có sau 19 năm kể từ sự kiện Vành Khăn năm 1995.

Điều Bắc Kinh không muốn nhất là quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Và trái với tính toán của Bắc Kinh, ASEAN đã tỏ rõ sức mạnh đoàn kết của cả khối trong việc đồng thuận đưa tình hình Biển Đông vào các văn kiện của Hội nghị cấp cao (tuyên bố Nay Pyi daw và Tuyên bố Chủ tịch) tháng 5/2014.

Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long kêu gọi ASEAN cần thể hiện quan điểm chung về tình hình Biển Đông vì các cuộc “xung đột xảy ra ngay tại cửa ngõ của chúng ta”. Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa khẳng định TQ phải tôn trọng những cam kết của mình đối với Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC).

Theo ông, Bắc Kinh luôn muốn giải quyết tranh chấp Biển Đông trên cơ sở song phương và không muốn có sự tham dự của bên thứ ba.

Tuy nhiên, hành động TQ đưa giàn khoan trái phép vào vùng biển VN không chỉ là vấn đề song phương mà còn là vấn đề của khu vực, vì vậy ASEAN có “trách nhiệm đặc biệt” để đảm bảo hai bên sẽ đối thoại để giải quyết tình hình.

ASEAN đã trưởng thành lên so với năm 2012. Hòa bình, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, không sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh chấp, tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển, DOC và sớm có COC luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong lập trường các nước ASEAN.

Thứ năm, các cuộc xuống đường thể hiện lòng yêu nước của người dân VN đã nổ ra không chỉ trên dải đất chữ S mà khắp thế giới nơi có người Việt sinh sống. VN có được lòng dân cả trong và ngoài nước.


Kỳ tới:Đích nhắm nào của TQ sau giàn khoan Hải Dương 981?

“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” hiểu như thế nào?

Ls Hà Huy Sơn
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” hiểu theo nghĩa đen là “Lấy cái không thay đổi để đối phó với nhiều cái thay đổi”. Đây có thể  được coi là phương sách cô đọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nên việc hiểu điều này như thế nào có ý nghĩa rất quan trọng để có giải pháp đúng đắn cho tình hình Biển Đông trước mắt và cho tương lai lâu dài của đất nước.


Vật chất không đứng yên mà luôn luôn thay đổi – đó là khách quan. Hay nói cách khác không có cái gì là không thay đổi, không có gì là muôn năm, không có gì là sống mãi.

Cái không thay đổi trong lịch sử loài người là quyền được sống, quyền được hưởng tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc hay bao quát hơn là quyền con người ngày càng phải hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn. Quyền con người chính là “Dĩ bất biến”. Mọi tổ chức, mọi cá nhân và các chủ thuyết, tư tưởng, tôn giáo… đều chỉ là “Ứng vạn biến”.

Nếu việc chọn sai “Dĩ bất biến” là đi ngược lại với thực tế khách quan. Khi đó “Dĩ bất biến” chính là cái vòng kim cô chôn vùi các tổ chức, cá nhân và chôn vùi cả một đất nước, cả một dân tộc. Lịch sử loài người đã tồn tại, phát triển chính là nhờ biết tuân theo quy luật khách quan và nhận thức được sự thay đổi của thế giới. Hệ thống Xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nguyên nhân chính sự giáo điều đã làm cho nó không có khả năng thay đổi. Họ đã chọn sai cái “Dĩ bất biến” nên mọi sự “Ứng vạn biến” chỉ để củng cố, duy trì cái bảo thủ, lỗi thời và hậu quả đã bị quy luật khách quan cuốn trôi theo dòng chảy của lịch sử.

Giải pháp cho tình hình Biển Đông hiện nay và cũng là giải pháp cho tương lai của đất nước là chỉ có dân chủ hay nhân dân mới chính là “Dĩ bất biến” –  không thay đổi, còn lại đều có thể “vạn biến” tức là đều thay đổi. Đảng Cộng sản Trung Quốc hôm nay đã không thể là bạn của nhân dân Việt Nam được nữa và cũng như vậy không ai mãi là thù của nhân dân Việt Nam. Mọi vật đều thay đổi đó là “Dĩ bất biến” và “Ứng vạn biến” phải thích ứng với điều này.

H.H.S

Bài viết phản ánh quan điểm riêng của tác giả

Tướng Thanh đưa Hoa Kỳ và Nhật Bản vào thế việt vị tại Biển Đông

Cầu Nhật Tân
Sáng 31/5/2014, tại Hội nghị đối thoại Quốc phòng an ninh châu Á (Shangri La 2014), tướng Phùng Quang Thanh có bài phát biểu bày tỏ quan điểm của Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Được biết, bài phát biểu này đã được Bộ Chính trị duyệt đi duyệt lại, cân nhắc từng câu chữ trước khi nhét vào tay cho tướng Thanh mang đi đọc tại Hội nghị trên.

Bài phát biểu được cho là có nhiều điểm tương đồng với quan điểm của Trung Quốc đã khiến Hoa Kỳ và Nhật Bản rơi vào thế việt vị hoàn toàn.

Trong bài phát biểu, tướng Thanh nói: “Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc (vẫn dùng từ bạn của ngành Tuyên giáo) về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề TRANH CHẤP chủ quyền trên Biển Đông nên đôi khi cũng có những VA CHẠM gây căng thẳng như sự việc ngày 1/5/2014”.

Trước đó ông ví chuyện Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam như mâu thuẫn nội bộ gia đình và cần giải quyết song phương: “Những vấn đề có liên quan đến hai nước thì cần giải quyết SONG PHƯƠNG… Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia, hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi”.

Mở đầu hội nghị, Thủ tướng Shinzo Abe (Nhật Bản) có bài phát biểu rất mạnh mẽ lên án Trung Quốc, bảo vệ Việt Nam và Phillippines. Ông nói: “Nhật bản sẽ hỗ trợ tối đa mọi nỗ lực của các quốc gia Đông Nam Á nhằm bảo vệ an ninh trên biển và trên không… Nhật Bản sẽ hỗ trợ Việt Nam và Phillippines trong bảo vệ lãnh hải”. Đồng thời ông chỉ thẳng ra rằng Trung Quốc là thế lực gây mất ổn định khu vực.

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, ông Chuck Hagel, mở đầu bài phát biểu cáo buộc ngay Trung Quốc: “Trong những tháng gần đây, Trung Quốc đã ĐƠN PHƯƠNG tiến hành xâm chiếm lãnh hải trên Biển Đông, làm mất ổn định khu vực”. Cuối bài phát biểu, ông ủng hộ Nhật Bản giữ vai trò lớn hơn và tích cực hơn trong khu vực như phát biểu của Thủ tướng Shinzo Abe trước đó.

Thượng nghị sỹ Ben Cardin (Hoa Kỳ) trong bài phát biểu cũng lên án hành động ĐƠN PHƯƠNG của Bắc Kinh dùng giàn khoan xâm phạm vùng biển ngoài khơi Việt Nam. Đáp lại, bà Phó Oánh (đoàn Trung Quốc) tức tối nói: “Hà Nội và Bắc Kinh sẽ tự giải quyết TRANH CHẤP này trên cơ sở song phương. Đây là vấn đề giữa Việt Nam và Trung Quốc, tôi cho rằng ông Ben đừng tự nhảy vào giải quyết vấn đề này hộ chúng tôi (Việt Nam – TQ)”. 

Trong cuộc gặp đoàn Hoa Kỳ và Trung Quốc tại Hội nghị, tướng Vương Quán Trung (Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội TQ) cũng chỉ trích ông Chuck Hagel về quan điểm của Hoa Kỳ và cho rằng đây là vấn đề song phương giữa Trung Quốc và VN.

Như vậy, quan điểm của Phùng Quang Thanh và Phó Oánh, Vương Quán Trung rất tương đồng: đây là vấn đề nội bộ gia đình Việt Nam – Trung Quốc. Phó Oánh dùng từ “tranh chấp” chỉ việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào xâm phạm vùng biển Việt Nam, cố tình lờ đi đây là hành động xâm lược ĐƠN PHƯƠNG. Thủ tướng Shinzo Abe, Bộ trưởng Chuck Hagel và Thượng nghị sỹ Ben Cardin luôn dùng từ ĐƠN PHƯƠNG để lên án hành động xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam. Tướng Thanh lại dùng từ “tranh chấp”, “va chạm” để chỉ hành động Trung Quốc đơn phương xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam, rất gần với từ ngữ trong luận điệu của Phó Oánh, Vương Quán Trung. Riêng từ “va chạm” mà tướng Thanh dùng khiến làm giảm hẳn tính chất phi pháp, nghiêm trọng trong hành động mang tính đơn phương mà Trung Quốc tiến hành xâm chiếm chủ quyền biển của Việt Nam, đe dọa an ninh khu vực và quốc tế. Ngoài ra việc tướng Thanh ví đây là chuyện gia đình khiến nhiều nhà quan sát bên ngoài phải ‘nhíu mày” bởi hành động Trung Quốc đơn phương xâm phạm chủ quyền của Việt Nam còn vi phạm luật pháp quốc tế, đe dọa an ninh và tự do hàng hải chung của các nước nên không thể coi là chuyện “nội bộ gia đình”.

Như vậy, quan điểm về giải quyết vấn đề Biển Đông hiện nay mà Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh bày tỏ tại hội nghị Shangri La 2014 khá gần với quan điểm của Trung Quốc, không biết vô tình hay cố ý, đã đưa Nhật Bản cùng Hoa Kỳ vào thế việt vị hoàn toàn.

Song, tướng Thanh lại tự mâu thuẫn: Chúng tôi hy vọng vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế, các mâu thuẫn, bất đồng sẽ từng bước được giải quyết, duy trì được sự ổn định và phát triển ở khu vực, đóng góp chung cho môi trường hòa bình của thế giới. Sau đó, ông liệt ra hàng loạt các cơ chế đa phương cần có để giải quyết. 

Hiện, dư luận đang xôn xao việc chỉ đạo “xuống giọng” tại Hội nghị Shangri La và việc trì hoãn chuyến thăm Hoa Kỳ của Phó thủ tướng Phạm Bình Minh hẳn phải có một thông điệp gì đó mà Hà Nội muốn chuyển tới Bắc Kinh cũng như thế giới.

Bài viết phản ánh quan điểm riêng của tác giả

Song phương với Trung Quốc là vô phương cứu chữa

Nam Nguyên
Ảnh bên:Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang (trái) gặp gỡ Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường ở Bắc Kinh vào ngày 20 tháng 6 năm 2013. (ảnh minh họa)

Nhà nước Việt Nam luồn lách giữa các giải pháp song phương và đa phương trong vấn đề biển Đông. Trong vụ giàn khoan Trung Quốc HD 981 xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam có vẻ nhà nước đang chuyển qua giải quyết đa phương.


Bảo vệ quyền lực?

Sau Hội nghị Thành Đô 1990, Việt Nam bình thường hóa bang giao với Trung Quốc và càng ngày càng yếu thế, lép vế trong quan hệ được tô vẽ là hữu nghị 4 tốt 16 chữ vàng. Từ khi Trung Quốc để lộ tham vọng chiếm cứ biển Đông với đường chủ quyền 9 đoạn gọi là đường lưỡi bò, Việt Nam luôn khẳng định giải quyết tranh chấp song phương với Trung Quốc cho vấn đề vịnh Bắc bộ, vùng biển Hoàng Sa Trường Sa mà Việt Nam khẳng định chủ quyền.

Giờ đây Việt Nam đang cố gắng tranh thủ vận động dư luận, vận động ngoại giao tìm sự ủng hộ của thế giới trong cuộc đấu tranh với kẻ xâm lăng là Trung Quốc. Tuy vậy nhà nước vẫn lập đi lập lại không tham gia bất kỳ một liên minh quân sự nào, cũng không chống lại Trung Quốc.
TS Phạm Chí Dũng, nhà bình luận độc lập từ Saigon nhận định:

“Tôi nghĩ Việt Nam không thay đổi đâu, họ từng có chủ trương Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước cho nên là song phương lúc này đa phương lúc khác. Chuyện đó là điều gần như tất yếu đối với Việt Nam, chỉ có điều là song phương hay đa phương thì tôi cũng nghĩ họ không chủ động, họ gần như ở trong thế bị động. Và lúc này nếu có một câu chuyện đa phương giữa cả Tây Âu, Hoa Kỳ và với cả Trung Quốc thì tôi nghĩ là họ vẫn đang tính toán là làm sao có thể đi dây giữa các quốc gia các thế lực siêu cường trên thế giới mà không ảnh hưởng tới quyền lợi, quyền lực của họ.”

Trong việc Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ vào khoan thăm dò trên vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam, nguyên tắc giải quyết tranh chấp song phương sẽ làm cho Việt Nam đã yếu thế càng lép vế hơn nữa.

Thạc sĩ Hoàng Việt, giảng viên Luật quốc tế ở TP.HCM, thành viên Quỹ nghiên cứu biển Đông nhận định:

 Trung Quốc đang muốn kéo vấn đề này trở thành song phương, nghĩa là về Hoàng Sa là tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng mà việc Việt Nam mong muốn tranh thủ công luận quốc tế, thì Việt Nam phải có một chiến dịch đối ngoại để cho thế giới thấy rằng, đây không phải là vấn đề song phương, mà Hoàng Sa liên quan đến vấn đề rộng hơn là toàn bộ khu vực Biển Đông, trong đó liên quan tới an ninh và an toàn hàng hải Biển Đông.”
 
Ngày 29/5 trong phiên họp thường kỳ của chính phủ ở Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiết lộ là lãnh đạo Việt Nam đề nghị gặp người tương nhiệm Trung Quốc để thảo luận giải quyết vụ giàn khoan HD 981, nhưng Bắc Kinh từ khước và trả lời “không phải thời điểm thích hợp.” Tuy ông Dũng không chỉ rõ lãnh đạo Việt Nam là vị nào nhưng thông tin trên các mạng xã hội cho biết người đó là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo Chính phủ kiên quyết đấu tranh với Trung Quốc trên biển Đông, nhưng vẫn giữ quan hệ ngoại giao, kinh tế bình thường, tuyệt đối lên án các hành vi kích động, bài trừ người Hoa.

Kịch bản nào của lịch sử?

Giàn khoan HD 981 hạ đặt bất hợp pháp trên vùng biển Việt Nam đã bước sang tuần lễ thứ 5. Phía Trung Quốc đã khảo sát khoan thăm dò ở hai vị trí trên vùng biển ngoài khơi duyên hải tỉnh Quãng Ngãi. Trung Quốc đã triển khai hơn 100 tàu các loại kể cả tàu quân sự và máy bay yểm trợ để bảo vệ giàn khoan. Lực lượng chấp pháp Việt Nam với các tàu cảnh sát biển, tàu kiểm ngư vừa ít về số lượng vừa quá nhỏ bé so với các tàu hải giám, hải cảnh Trung Quốc. Có thể nói lực lượng tàu chấp pháp của Việt Nam bị kẻ thù trấn áp thô bạo với 30 tàu bị đâm va gây hư hỏng. Nhưng tàu chấp pháp Việt Nam được lệnh trên chỉ cố gắng hiện diện mà không phản ứng. Lệnh xua đuổi tàu Trung Quốc và giàn khoan HD 981 theo lệnh Thủ tướng nghe có vẻ mỉa mai. Tin ghi nhận trong 4 tuần qua chỉ có một lần duy nhất tàu kiểm ngư Việt Nam đáp trả tàu kẻ thù bằng vòi rồng, sự việc xảy ra vào sáng ngày 12/5.

Việt Nam đang bị mất chủ quyền trên vùng biển của mình, các biện pháp đấu tranh hòa bình với Trung Quốc sẽ có kết quả như thế nào trong tình hình và tương quan lực lượng hiện nay. TS Phạm Chí Dũng từ Saigon nhận định:

“Tôi cho là không chỉ song phương mà là vô phương đối với giàn khoan HD 981 và tất cả những giàn khoan sau này mà Trung Quốc sẽ hạ đặt trái phép ở vùng biển Việt Nam. Bởi vì một phép thử nho nhỏ mà Việt Nam chỉ từ thua tới thua thì sẽ làm sao đối với một chiến dịch dài hạn  Trung Quốc có thể đưa ra rất nhiều phép thử khác. Và chúng ta thấy tàu cá Việt Nam bị đâm thủng, hai người ngư dân bị chết ở Quảng Ninh mà cho tới giờ một số tờ báo Việt Nam vẫn dùng từ tàu lạ, thì không hiểu nổi lòng tự trọng dân tộc và tình cảm đồng loại của họ để ở đâu.”

Lịch sử Việt Nam từng có một ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ, nhưng người Việt Nam vẫn quật khởi gìn giữ đất nước và không bị phương bắc đồng hóa. Sử sách ghi nhớ Việt Nam từng có những triều đại anh minh hùng cường biết chiêu hiền đãi sĩ, tôn trọng lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết toàn dân chống ngoại xâm. Thế kỷ 21 ngày nay những đại quốc đầy tham vọng có thể có sự đô hộ kiểu mới, đưa các tiểu quốc yếu hèn vào vòng lệ thuộc mà chẳng cần phải đem quân chiếm đóng. Câu hỏi đặt ra là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện sẽ rơi vào kịch bản nào của lịch sử?

VN đã sẵn sàng kiện TQ vụ giàn khoan'

TT nói VN đã 'chuẩn bị xong' và 'sẵn sàng' kiện TQ
NQL:"Riêng về giải pháp đấu tranh pháp lý, Thủ tướng cho biết chúng ta đã chuẩn bị hàng chục năm nay, còn thời điểm nào hợp lý thì Bộ Chính trị sẽ quyết định."
Từ trong ý tứ mà suy/ cho đến mồng thất mới đi kiện Tàu?

Thủ tướng Chính phủ Việt Nam nói nước này đã 'chuẩn bị' và 'sẵn sàng' có hành động pháp lý kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về vụ Giàn khoan Hải Dương 981 ở khu vực Hoàng Sa, theo tờ Bloomberg.

Hôm 30/5/2014, ông Nguyễn Tấn Dũng nói với tờ báo Mỹ Việt Nam đã chuẩn bị sẵn sàng 'các bằng chứng' và đang cân nhắc thời điểm để đưa vụ kiện ra quốc tế.


 "Việt Nam đã chuẩn bị bằng chứng cho một hành động pháp lý thách thức tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở vùng biển ngoài khơi của Việt Nam và đang cân nhắc thời điểm tốt nhất để trình vụ kiện," tờ Bloomberg hôm 31/5 viết.

 "Chúng tôi đã chuẩn bị xong và sẵn sàng kiện," ông Dũng được trích thuật nói.

"Nếu xung đột nổ ra ở Biển Đông, sẽ không có người chiến thắng," ông Dũng đưa ra cảnh báo, và cho rằng hai phần ba tổng khối lượng thương mại hàng hải toàn cầu đi qua các tuyến đường ở gần khu vực, vốn rất gần với khu vực mà Trung Quốc hạ đặt và mới đây di chuyển giàn khoan.

Thủ tướng Việt Nam cũng nói với tờ báo Mỹ về việc Việt Nam đang đối phó một số thiệt hại kinh tế mà do cuộc tranh cãi từ vụ giàn khoan của Trung Quốc gây ra.

"Tranh cãi trên biển với Trung Quốc đã tác động một số lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam, tuy nhiên chúng tôi đã tiến hành một số biện pháp thích hợp để đối phó," ông Dũng được trích lời nói thêm.

" Đang cân nhắc"

Căng thẳng Biển Đông
Trang mạng chính phủ Việt Nam cũng dẫn lời ông Dũng nói VN 'đang cân nhắc' kiện TQ.

Hôm thứ Bảy, cổng thông tin điện tử của Chính phủ Việt Nam tại địa chỉ Chinhphu.vn cũng đưa tin tức về phát ngôn của ông Nguyễn Tấn Dũng trả lời tờ Bloomberg.

"Liên quan đến vụ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan trong vùng biển chủ quyền của Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ: hành động của Trung Quốc vừa qua đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định ở khu vực.

"Việt Nam kiên quyết đấu tranh và yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng biển chủ quyền của mình. Việt Nam cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế lên tiếng mạnh mẽ yêu cầu Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế, rút giàn khoan ra khỏi vùng biển của Việt Nam."

Trang mạng của Chính phủ Việt Nam cũng cho hay Việt Nam "đang cân nhắc" giải pháp hành động pháp lý chống Trung Quốc.

"Trả lời các câu hỏi liên quan đến quan điểm, cách thức đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Đảng và Nhà nước Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ: Việt Nam đã và sẽ làm hết sức để bảo vệ chủ quyền vùng biển của mình bằng biện pháp hòa bình, vì độc lập, chủ quyền của tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Đấu tranh pháp lý theo luật pháp quốc tế là một biện pháp hòa bình. Lãnh đạo Việt Nam đang cân nhắc giải pháp này", trang tin Chinhphu.vn viết.

Phát biểu của Thủ tướng Việt Nam với tờ Bloomberg được đưa ra chỉ bốn ngày sau khi một tàu cá của ngư dân Việt Nam bị một tàu Trung Quốc đâm chìm ở khu vực Hoàng Sa mà Trung Quốc đang hạ đặt và di chuyển giàn khoan Hải Dương 981.

Thông điệp của ông Dũng cũng được đưa ra vào thời điểm khai mạc diễn đàn Đối thoại về an ninh khu vực Shangri-La 13 diễn ra tại Singapore nơi mà Nhật Bản, Hoa Kỳ bên cạnh một số các quốc gia khác, đã có những phát biểu phê phán trực tiếp hoặc gián tiếp Trung Quốc 'vi phạm luật pháp' quốc tế và gây 'mất ổn định', 'căng thẳng' về an ninh trong khu vực.

Hai ngày trước đó, phái đoàn Đại diện Thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc hôm 28/5 gửi thư cho ông Tổng Thư ký Ban Ki-moon đề nghị lưu hành một Công hàm của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc, trong đó 'phản đối Trung Quốc không chịu chấm dứt các hoạt động vi phạm chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam' đối với 'vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam' theo quy định của Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982, mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.

Bộ chính trị quyết


Tướng Phùng Quang Thanh
Bộ trưởng Quốc phòng VN kêu gọi quân đội hai bên kiềm chế, tránh chiến tranh.

Hôm 29/5, Thủ tướng Việt Nam cũng nói tại một phiên họp thường kỳ của nội các Chính phủ do ông đứng đầu rằng thời điểm kiện Trung Quốc sẽ do Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định.
"Thủ tướng cho biết, hiện Bộ Chính trị chỉ đạo phải tiếp tục đấu tranh bằng biện pháp hoà bình, đúng theo luật pháp quốc tế," ông Dũng được tờ VnEconomy dẫn lời hôm thứ Năm nói.

"Riêng về giải pháp đấu tranh pháp lý, Thủ tướng cho biết chúng ta đã chuẩn bị hàng chục năm nay, còn thời điểm nào hợp lý thì Bộ Chính trị sẽ quyết định."

Hôm thứ Bảy, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Tướng Phùng Quang Thanh, đã lên tiếng tại diễn đàn Shangri-La 13.

Ông Thanh đánh giá quan hệ giữa Việt Nam và 'nước bạn láng giềng' Trung Quốc vẫn 'tốt đẹp' nhưng kêu gọi Trung Quốc 'rút giàn khoan' 981 ra khỏi khu vực đang căng thẳng ở Hoàng Sa, đồng thời ngồi xuống 'cùng đối thoại' với Việt Nam để giải quyết tình hình.

"Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông nên đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng như sự việc ngày 01/05/2014, Trung Quốc đã đơn phương hạ đặt giàn khoan nước sâu Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, đã gây bức xúc cho Nhân dân Việt Nam, gây lo ngại cho các quốc gia trong khu vực và cộng đồng quốc tế," ông Thanh nói trong bài phát biểu.

"Tôi cho rằng, quân đội hai nước phải hết sức kiềm chế, tăng cường hợp tác với nhau, kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động không để có những hành động ngoài tầm kiểm soát. Quân đội hai nước phải thể hiện vai trò tham mưu với lãnh đạo Đảng, Nhà nước xử lý thỏa đáng vấn đề một cách bình tĩnh, kiên trì, để không xảy ra xung đột, càng không để xảy ra chiến tranh," Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam nói thêm.

Thay đổi tư duy, lật ngược thế cờ

TS. Lê Đăng Doanh,  chuyên gia kinh tế cao cấp
Ảnh bên:Đồ chơi trẻ em nhập lậu từ Trung Quốc gần như chiếm lĩnh thị trường trong nước. Ảnh: T.L

Hơn bao giờ hết, Việt Nam cần đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách, giảm sự phụ thuộc của các doanh nghiệp Việt Nam vào các nguồn cung ứng nguyên, vật liệu từ Trung Quốc.


 Việt Nam cần xúc tiến đàm phán để đi đến ký kết các hiệp định với các đối tác khác như hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - liên minh châu Âu (EU), hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) để mở ra những thị trường mới, đối tác mới.

Điều rất quan trọng là Việt Nam phải đổi mới tư duy, thực hiện đồng bộ cải cách chính trị với cải cách kinh tế, cải cách thể chế, thực hiện cạnh tranh bình đẳng, công khai minh bạch, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, lợi ích nhóm và đặc quyền đặc lợi. Đây cũng là cơ hội để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, không phân biệt quá khứ, tôn giáo, ý kiến khác nhau trên cơ sở thống nhất vì lợi ích đất nước, vì sự phát triển phồn vinh của dân tộc, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Đây cũng là cơ hội để sử dụng người tài, khắc phục các biểu hiện lệch lạc trong chính sách cán bộ, ưu tiên “con ông, cháu cha”, “quan hệ”, đưa những người kém năng lực, phẩm chất vào bộ máy. Đây cũng là thời điểm sàng lọc cán bộ, áp dụng cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm để tiến tới có bộ máy có hiệu quả, tinh gọn, đáp ứng yêu cầu của người dân và các cam kết hội nhập quốc tế.

Giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải cải cách thể chế, bao gồm cả thể chế nhà nước và thể chế kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ, công khai minh bạch, làm rõ trách nhiệm giải trình của quan chức đối với chi tiêu ngân sách nhà nước, đầu tư công, trách nhiệm đối với dân và doanh nghiệp, giảm bớt chi phí về thời gian và tiền bạc đối với người dân và doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từng doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ.

Nhà nước cần thực hiện các chương trình hình thành các ngành công nghiệp và dịch vụ trợ giúp cho dệt-may, da giày, xe máy, xe đạp, chế biến nông, lâm thuỷ sản, bao bì v.v.. Đó là những ngành có thị trường đủ lớn để hình thành công nghiệp và dịch vụ trợ giúp có hiệu quả, không như ngành ôtô có quy mô nhỏ bé trong khi có quá nhiều nhà sản xuất cạnh tranh với nhau.

Để chuẩn bị gia nhập TPP, Việt Nam phải bảo đảm hàm lượng 70% TPP cho các nguyên, vật liệu cho dệt may từ sợi trở lên nên hình thành các ngành sản xuất các phụ kiện cho dệt - may như sợi, nhuộm cúc áo, khóa kéo... là rất cần thiết và đang được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm.

Việc hợp tác nông nghiệp với Nhật Bản cũng đang có cơ hội lớn khi cả hai nước đều là thành viên TPP, Nhật Bản có thể đầu tư vào nông nghiệp, thuỷ sản ở Việt Nam sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao, sơ chế, bao bì bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm để xuất về Nhật Bản với thuế suất bằng 0%.

Để có thể hợp tác với Nhật Bản và các nước khác, nông nghiệp Việt Nam phải tái cơ cấu, chuyển sang sản xuất quy mô công nghiệp, có lao động được đào tạo, có chuyên môn và tay nghề cao, tiếp cận được với nguồn tín dụng, khoa học-công nghệ tiên tiến. Đó là những cơ hội và thách thức to lớn đứng trước nền nông nghiệp nước ta nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Trước tình hình hiện nay, với tấm lòng yêu nước, người tiêu dùng Việt Nam nên hưởng ứng mạnh mẽ phong trào “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, không dùng những hàng nhập lậu, kém chất lượng, thậm chí độc hại từ Trung Quốc. Báo chí, truyền thông cần tích cực chỉ ra những sản phẩm độc hại, kém chất lượng để người tiêu dùng chủ động tránh. Kinh nghiệm cho thấy bia Trung Quốc, xe máy Trung Quốc kém chất lượng đã không có chỗ đứng trên thị trường Việt Nam. Đó là cơ hội để các nhà sản xuất và phân phối Việt Nam vươn lên đưa hàng về đến nông thôn với giá cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước. Các tỉnh biên giới cùng với các cơ quan có trách nhiệm cần đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống buôn lậu, cải thiện đời sống đồng bào dân tộc để đồng bào không cần buôn lậu cũng đủ sống, đồng thời phải truy tìm tận gốc những chủ đầu nậu để triệt tận gốc nạn buôn lậu này. Về lâu dài, các sản phẩm Việt Nam phải cạnh tranh được với các sản phâm Trung Quốc về chất lượng, giá cả thì mới hạn chế được buôn lậu và giữ vững thị trường nội địa trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc.

TS. Lê Đăng Doanh,  chuyên gia kinh tế cao cấp