Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

> AI QUÊN LỢI ÍCH QUỐC GIA, DÂN TỘC ?

Chào năm mới 2013

Không ai quên
lợi ích quốc gia, dân tộc

TTO -- Ước mong của tôi có lẽ cũng nằm trong ước mong chung của mọi người Việt Nam, đó là sang năm 2013 đất nước ta tiếp tục ổn định, nền kinh tế ấm hơn và hòa bình ở biển Đông”.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh (Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) tâm sự như trên trong cuộc trò chuyện trước thềm năm mới với Tuổi Trẻ.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh - Ảnh: NGUYỄN KHÁNH
Một trật tự đa cực đang dần rõ nét
"Một vấn đề rất cụ thể là chủ quyền trên biển Đông không chỉ có những nước liên quan trực tiếp, mà cả cộng đồng thế giới đều không thể chấp nhận việc bất kỳ một quốc gia nào đó muốn độc chiếm biển Đông, muốn biến đường vận tải quốc tế thành ao nhà của mình, Trung Quốc cũng vậy, Mỹ cũng vậy, và bất kỳ nước nào khác với bất kỳ lý do gìcũng đều không thể chấp nhận"
* Trong cuộc trò chuyện với chúng tôi cách đây vừa tròn một năm, khi nhận định về an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và đặc biệt là Đông Nam Á, ông nói rằng nguy cơ lớn nhất chính là một cuộc chạy đua vũ trang mới, một cuộc chiến tranh lạnh mới và một chiến lược “ngoại giao pháo hạm” mới của các nước lớn khi triển khai sự can dự của họ. Trong năm qua đã có những diễn biến gì mới xung quanh vấn đề này?
- Chúng ta đã và đang chứng kiến sự can dự một cách mạnh mẽ, khẩn trương và hết sức quyết liệt của các nước lớn vào khu vực, làm cho tình hình khu vực thay đổi rất nhanh chóng, không loại trừ sẽ có những thay đổi về chất so với trước đây.
Trước hết là việc Mỹ tuyên bố tái cân bằng chiến lược, quay lại châu Á - Thái Bình Dương. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã tuyên bố từ nay đến năm 2020, lực lượng quân sự Mỹ sẽ chuyển dịch cán cân ở Thái Bình Dương và Đại Tây Dương thành 60-40 thay vì 50-50 hiện tại.
Dù sự chuyển dịch đó chỉ là 10% nhưng có ý nghĩa rất lớn về mặt biểu tượng. Hoa Kỳ vẫn tự xem mình là một quốc gia Thái Bình Dương, và sự can dự của Mỹ vào đây là rất ồn ào, chúng ta hãy nhớ câu nói của Ngoại trưởng Hillary Clinton: “Trong thế kỷ 21 này, điều quan trọng là chúng ta phải khẳng định rất rõ chúng ta có mặt tại đây để ở lại đây”.
Bên cạnh đó, đã xuất hiện cách tiếp cận mới của Trung Quốc. Trong diễn văn khai mạc Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào tuyên bố “xây dựng Trung Quốc thành một cường quốc về biển”. Bối cảnh nêu trên không khỏi khiến các nước trong khu vực cảm nhận thấy có hai thế lực nổi lên trong khu vực và mỗi thế lực có hướng đi riêng. Có thể là những câu chuyện như đối đầu, xung đột, “hai phe” đang ở đâu đó rất xa xăm phía chân trời, nhưng về mặt chiến lược thì sự cọ xát của các thế lực này cũng đã tạo ra năng lượng làm cho khu vực nóng lên.
* Một số học giả quốc tế cho rằng cùng với vị trí siêu cường của Mỹ và sự trỗi dậy của Trung Quốc, quan hệ giữa hai nước này có “cơm lành canh ngọt” hay không sẽ ảnh hưởng đến cả thế giới. Những nước trong khu vực, nhất là các nước đang có “vấn đề” với những cường quốc này, sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất. Ông nghĩ sao về nhận định này?
- Đúng thế, trên bình diện quốc tế hiện nay, chiến lược của hai cường quốc là Mỹ và Trung Quốc cũng như mối quan hệ giữa hai quốc gia này đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng an ninh ở phạm vi toàn cầu, từng khu vực và đối với từng quốc gia.
Đặc trưng của mối quan hệ giữa hai cường quốc này là vừa hợp tác vừa cạnh tranh, hay nói nôm na là nước nào cũng muốn vượt nhau nhưng lại cần nhau, dù cạnh tranh gay gắt nhưng buộc phải hợp tác chặt chẽ, chia sẻ lợi ích với nhau để cùng tồn tại và vươn lên. Ví  dụ như trong lĩnh vực kinh tế, dù muốn hay không Trung Quốc cũng buộc phải hợp tác với nền kinh tế cùng tiềm năng khoa học công nghệ hàng đầu thế giới là Mỹ, ngược lại, Mỹ cũng không thể bỏ qua một thị trường hơn 1,3 tỉ người với nguồn vốn dồi dào của Trung Quốc...
Nếu mối quan hệ vừa cạnh tranh vừa hợp tác này được tăng cường, đem lại lợi ích cho Mỹ và Trung Quốc, đồng thời đem lại lợi ích chung cho tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần duy trì hòa bình ổn định thì chắc chắn sẽ được hoan nghênh. Tuy nhiên nếu mối quan hệ này phát triển theo hướng thỏa hiệp và nhằm can dự, xâm phạm, làm tổn hại đến lợi ích các quốc gia khác, gây mất ổn định cho khu vực thì các nước xung quanh sẽ gặp rất nhiều khó khăn và chắc chắn không thể hoan nghênh cách hành xử như vậy của các cường quốc.
Trong bối cảnh tình hình hiện nay, với một trật tự đa cực đang dần rõ nét cùng quá trình hội nhập, toàn cầu hóa mạnh mẽ, mối quan hệ giữa hai cường quốc Mỹ và Trung Quốc buộc phải mang tính chất hợp tác theo hướng mở. Họ không thể chỉ tập trung vào lợi ích cục bộ của mình hoặc một nhóm nhỏ vài đồng minh thân cận mà bỏ qua lợi ích của “phần còn lại”, lôi kéo các nước vào phe này hay phe kia, tạo nên tranh chấp, xung đột gây thiệt hại cho tất cả các bên.
Quay lại với khu vực, rõ ràng tất cả các nước, trong đó có Việt Nam, chịu ảnh hưởng từ chính sách của hai cường quốc này cũng như mối quan hệ của họ với nhau. Tuy nhiên, dù là nước nhỏ nhưng không thể chỉ ngồi chờ các tác động tích cực của mối quan hệ Mỹ - Trung Quốc để hưởng lợi, cũng không thể mặc nhiên chấp nhận các tác động tiêu cực từ mối quan hệ này mà không có phản ứng gì. Có hai yếu tố mà chúng ta cần kiên định để phản ứng một cách chủ động, tích cực - đó là đường lối độc lập tự chủ trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế; tăng cường mối quan hệ liên kết với các quốc gia trong khu vực hoặc ở phạm vi toàn cầu có cùng nhu cầu ổn định và phát triển, cùng phải ứng phó với các thách thức giống nhau. Nếu các nước nhỏ tạo nên được tiếng nói chung, thống nhất thì các cường quốc có lớn mạnh đến đâu chăng nữa cũng không thể tự tung tự tác, không thể muốn làm gì thì làm mà phải tính tới hai yếu tố này.
* Với góc độ là một nhà nghiên cứu chiến lược, theo ông, sự can dự của các cường quốc bên ngoài vào khu vực sẽ tác động ra sao đối với các thành viên trong khu vực?
- Sự can dự này sẽ có lợi cho các nước trong khu vực nếu nó được khống chế bởi ba yếu tố: thứ nhất, đó phải là sự can dự đem lại hòa bình, ổn định và phát triển; thứ hai, phải tuân thủ luật pháp quốc tế; thứ ba - rất quan trọng - là những can dự đó phải được sự đồng thuận của những nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, một nước lớn nào đó có thể can dự vào chỗ này, chỗ kia bằng cách tiến hành một cuộc chiến tranh. Thời đại hiện nay khó có thể diễn ra khả năng đó. Lịch sử đã chứng minh cách can dự theo kiểu đó không sớm thì muộn đều chuốc lấy thất bại.
Mà can dự không chiến tranh nghĩa là phải bằng biện pháp hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc tế, phải có sự đồng thuận của người ta. Từ cách tiếp cận như vậy, chúng ta thấy rằng chính sự can dự của các nước lớn sẽ trở thành một xung lực làm cho khu vực này có giá trị hơn. Nói một cách nôm na là như một miếng đất đẹp, nhiều người dòm ngó thì đương nhiên sẽ có giá trị cao hơn. Một vấn đề nữa là khi không dùng vũ lực để can dự thì sẽ tạo ra sự bình đẳng tương đối giữa nước lớn với nước nhỏ. Tiếng nói của nước nhỏ sẽ được quan tâm, vì khi tham gia vào công việc quốc tế thì nước lớn hay nước nhỏ cũng là một lá phiếu, tại các diễn đàn quốc tế cũng là một tiếng nói.
Chúng ta đừng quên rằng các nước lớn can dự vào đây không phải bằng chính sách ngoại giao chung chung. Bao giờ cũng vậy, lợi ích kinh tế là động lực đầu tiên và cũng là mục đích sau cùng. Khi anh vào đây vì lợi ích của mình mà lại muốn có sự đồng thuận thì nhất định phải chia sẻ lợi ích với các nước trong khu vực. Qua đó, các nước trong khu vực nếu tận dụng được cơ hội thì sẽ có thêm nguồn lực để phát triển.
* Thế còn những mặt bất lợi, nếu có?
- Dù mục đích như nhau nhưng cách thức can dự của mỗi thế lực bên ngoài khu vực vào đây có những điểm khác nhau. Có nước chọn cách vào khu vực bằng “cửa trước”, có nước lại chọn đi “cửa sau”, bằng các biện pháp kinh tế, chính trị... và cả những biện pháp “phi truyền thống” mà bây giờ mới thấy. Bao giờ cũng vậy, một sân chơi chung khi bị ngoại lực tác động mà có thành viên nào đó chạy theo lợi ích cục bộ, ngắn hạn sẽ dẫn đến chia rẽ.
Trong thực tế, dù chỉ trong một thời gian rất ngắn, vài năm gần đây đã có những tham vọng được bộc lộ, những tuyên bố và cả những hành động trên thực tế khiến các nước trong khu vực cảm thấy lo lắng. Có nước lo xa, có nước lo rất gần.
Đơn cử như việc một số nước tuyên bố về chủ quyền, không hiểu họ dựa vào đâu, cơ sở pháp lý nào? Nay đưa ra bản đồ này đã rất tham vọng rồi, mai lại đưa ra bản đồ khác tham vọng hơn nữa thì sao?
Một vấn đề rất cụ thể là chủ quyền trên biển Đông không chỉ có những nước liên quan trực tiếp, mà cả cộng đồng thế giới đều không thể chấp nhận việc bất kỳ một quốc gia nào đó muốn độc chiếm biển Đông, muốn biến đường vận tải quốc tế thành ao nhà của mình.
Trung Quốc cũng vậy, Mỹ cũng vậy, và bất kỳ nước nào khác với bất kỳ lý do gì cũng đều không thể chấp nhận. Chỉ trong vài năm qua, Hoa Kỳ bày tỏ tham vọng và trên thực tế họ đã can dự, đã hiện diện rất ồ ạt vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương (có thể thấy rõ nhất qua một số hiệp ước mà Mỹ đã ký với Nhật, Hàn Quốc, Úc, Philippines... gần đây). Như vậy ở đây ai là người đã cho Mỹ có một lý do để can dự vào khu vực? Và họ vào dễ dàng như thế, ít gặp phải sự phản đối hay quan ngại như thế? Chắc rằng mỗi chúng ta đều tự có câu trả lời.
Cách can dự của Mỹ, như họ tuyên bố là ủng hộ các giải pháp hòa bình và luật pháp quốc tế, làm cho một số nước đồng tình mà có thể không lưu tâm đúng mức đến mặt trái của nó. Tôi đã có lần nói với một quan chức quốc phòng cao cấp của Mỹ: “Nếu như các ông làm đúng những gì đã nói thì tôi hoan nghênh, còn nếu không các ông sẽ buộc phải rời khỏi khu vực như năm 1975 rời khỏi Việt Nam”.
Điều đáng lo ngại nhất là sự can dự và cạnh tranh của các cường quốc vào khu vực sẽ tạo nên xung đột buộc các nước bị cuốn vào hoặc bị ảnh hưởng. Nếu chưa đến mức xung đột thì cũng đáng lo ngại không kém khi sự can dự đó khiến các thành viên trong khu vực bị buộc phải lựa chọn theo thế lực này hoặc thế lực kia, buộc phải lựa chọn “bên này hay bên kia”.
Chúng ta nhất thiết phải chống lại các xu hướng đó, nhưng còn các nước khác thì sao? Một vấn đề nữa là chúng ta hãy nhìn Bắc Phi và Trung Đông, sự biến động ở mỗi nước trước hết do những nguyên nhân bên trong, nhưng nguyên nhân sâu xa là sự can dự của các nước lớn.
* Trước sự can dự của các cường quốc vào khu vực, để thụ hưởng được những lợi ích và ngăn chặn mặt trái thì phải làm gì?
- Trước hết mỗi nước phải có được tinh thần độc lập, tự chủ không riêng trong vấn đề giữ chủ quyền mà còn về đường lối chính trị, về kinh tế, văn hóa... thì mới làm chủ được vận mệnh và con đường phát triển của đất nước mình.
Thứ hai là mỗi quốc gia cần có đủ sức mạnh để đứng vững trước sự nghiêng ngả của tình hình - trước hết là sức mạnh về chính trị, về sự ổn định nội bộ, phát triển về kinh tế, văn hóa và có một nền quốc phòng vừa đủ mạnh để bảo vệ đất nước.
Thứ ba là phải có một nền đối ngoại minh bạch, rộng mở, có trách nhiệm, trên tinh thần thêm bạn bớt thù, đi đến chỉ có bạn, có đối tác mà không có thù. Bên cạnh đó là những diễn đàn đa phương ngày càng trở nên quan trọng. Đẩy mạnh hợp tác đa phương trên tất cả các lĩnh vực sẽ tạo ra “khung” để “giằng” với nhau, không cho anh nào một thân một mình muốn làm gì thì làm. Hay nói nôm na chỉ có một cơ thể mạnh khỏe, trong một môi trường tương đối sạch sẽ, lành mạnh thì mới thụ hưởng được làn gió mát, chống đỡ được gió độc khi mở rộng cửa ra bên ngoài.
* Nếu ví ASEAN như bó đũa thì thực tế thời gian qua cho thấy có chiếc đũa chịu ảnh hưởng của nước lớn ngoài khu vực đã làm suy yếu bó đũa?
- Bất cứ đất nước nào, dân tộc nào cũng phải lo cho lợi ích của mình. Người phương Đông có câu “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. ASEAN có lợi ích chung, quan tâm chung trên nhiều lĩnh vực, trong đó nổi lên vấn đề hòa bình, ổn định và an ninh - an toàn hàng hải. Như vậy trong cách vận hành cũng như những vấn đề mà ASEAN đặt ra phải chứng minh được thật sự là tổ chức có đóng góp tích cực về hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển khu vực. Mỗi quốc gia thành viên phải có trách nhiệm với ASEAN và ASEAN phải có trách nhiệm với từng thành viên trên cơ sở đoàn kết. Nếu “tan đàn xẻ nghé” thì cái lợi chung không còn và cái lợi riêng cũng nhất định sẽ bị ảnh hưởng.
Việc một tuần sau khi hội nghị các bộ trưởng ngoại giao không ra được tuyên bố chung chỉ vì những bất đồng trong cách đề cập vấn đề biển Đông, các nguyên thủ ASEAN đã lại đồng lòng ra bản “Tuyên bố sáu điểm về biển Đông” đã chứng minh sự đồng thuận vì mục đích chung, lợi ích toàn cục vẫn là mục đích cao nhất mà các quốc gia ASEAN hướng đến.
Bộ đội Trường Sa luôn sẵn sàng bảo vệ chủ quyền đất nước - Ảnh tư liệu
“Tất cả đều bày tỏ sự lo ngại”
* Qua tiếp xúc với quan chức quốc phòng các nước trong ASEAN, ông thấy phản ứng của họ đối với những diễn biến gần đây xung quanh vấn đề biển Đông như thế nào?
- Tất cả đều bày tỏ sự lo ngại.
Trước hết là trước những tuyên bố rất khó hiểu của Trung Quốc về chủ quyền trên biển Đông, chẳng ai có thể chứng minh nổi nó từ đâu ra, trên cơ sở pháp lý nào, được quản lý và sử dụng ra sao trong suốt bề dày lịch sử?... Và liệu còn “đường...” nào nữa không mà họ sẽ đưa ra trong tương lai? Và không dừng lại ở đó, mà vấn đề quan trọng hơn là Trung Quốc có tuân thủ luật pháp quốc tế không, có tuân thủ các điều ước và các quy tắc ứng xử của thế giới hiện đại hay không?
Bên cạnh đó sự hiện diện, can dự ồ ạt của Mỹ - theo đúng kiểu Mỹ - đem lại sự hứng khởi ban đầu cho một số nước, nhưng cũng làm xuất hiện những quan ngại. Mỹ nói là can dự vì hòa bình, ổn định và phát triển, nhưng sao chưa thấy gì về kinh tế, văn hóa mà chỉ thấy đông tàu chiến, máy bay quá? Ngay đối với cả những nước đồng minh thân cận của Mỹ, họ cũng tự hỏi (và có những nước đã hỏi ra miệng): Liệu các ông đến, rồi đến lúc nào đó các ông lại đi không? Và đôi khi những bài học trong lịch sử được nhắc lại: Liệu các “ông lớn” đến lúc nào đó lại thỏa hiệp trên lưng mình không?...
Trong nội khối, các nước châu Á - Thái Bình Dương, trong đó trọng tâm là Đông Nam Á, cũng gợn lên những lăn tăn về sự đoàn kết, thống nhất, vai trò trung tâm của ASEAN liệu có đứng vững được không khi thì cái gậy, khi thì củ cà rốt của các ông lớn đua nhau xòe ra trước mặt từng nước, tùy theo hoàn cảnh, điều kiện, thời điểm... (mà thời đại này họ sử dụng các công cụ ấy khéo lắm, thành nghệ thuật cả rồi)...
Không nước nào trong khu vực lại không muốn vấn đề biển Đông được giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, cụ thể là UNCLOS 1982, DOC, tiến tới COC. Không một nước nào không muốn sự can dự của các nước lớn mang lại hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc tế.
Vì vậy nước nào cũng quan tâm, cũng lo ngại, nhưng mức độ phát ngôn, phản ứng của mỗi nước khác nhau do nhu cầu của họ trong quan hệ quốc tế rất đa dạng, khi phát ngôn thì họ phải tính đến lợi ích của nước họ vào mỗi thời điểm nhất định.
Vấn đề của các nước trong khu vực là cần phải tìm được một tiếng nói chung, không áp đặt, không phương hại đến lợi ích của bất kỳ nước nào nhưng giữ cho được nguyên tắc của ASEAN về những vấn đề chung, đó là: Đồng thuận, đoàn kết, hợp tác. Vì hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, công khai minh bạch, tôn trọng lẫn nhau.
* Một số nhân sĩ trí thức cho rằng bảo vệ chủ quyền là công việc không phải của riêng Đảng và Nhà nước, người dân cũng phải chung tay. Ông suy nghĩ gì về cuộc biểu tình phản đối những hành động xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam?


- Trước đây tôi đã nói về vấn đề này và bây giờ vẫn nói rằng những cuộc biểu tình đó là không nên. Để đối phó với tình hình phức tạp trên biển Đông hiện nay, chúng ta cần một sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và Nhà nước cũng như giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Có thể người dân chưa thật hài lòng và yên tâm vì chưa được cung cấp đầy đủ thông tin, nhưng tôi chỉ muốn nói với những người biểu tình nói riêng và tất cả người dân rằng những người có trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, quân đội không một ai chịu để mất chủ quyền lãnh thổ cả. Người dân phải tin vào điều đó.
Có thể đất nước ta có tham nhũng, lãng phí, có tiêu cực, có thể một bộ phận cán bộ suy thoái về đạo đức, nhưng tuyệt đại đa số nhân dân ta không ai có thể quên đi lợi ích quốc gia dân tộc, quên đi chủ quyền lãnh thổ. Biểu tình bây giờ sẽ gây mất ổn định. Trong khi đó đất nước ta đang hơn bao giờ hết cần ổn định, cần sự đồng thuận để phát triển, để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Chúng ta trân trọng tình cảm, ý chí của những người thật sự biểu tình vì yêu nước. Nhưng cũng phải thấy rằng với những ai có dã tâm độc chiếm biển Đông thì họ sẽ viện cớ biểu tình để xuyên tạc thiện chí của Việt Nam, xuyên tạc chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình của Việt Nam. Vậy thì ai đang chờ biểu tình và biểu tình có lợi cho ai?
Nhìn lại thời gian qua, có một vấn đề nổi lên là những thông tin không chính thống, không đầy đủ và không chính xác trên mạng Internet về tình hình đất nước, về nội bộ Đảng và Nhà nước.
Những loại thông tin này rất nguy hiểm, nhất là với những người dân chưa quen với chiến tranh mạng, chưa quen với cuộc sống thế giới phẳng. Chính vì vậy, cần phải làm sao để tất cả người dân Việt Nam có được nhận thức chung về những vấn đề có tính sống còn của đất nước, để từ đó tạo ra sức mạnh đồng thuận đưa đất nước đi lên.
Thế mạnh và công cụ đấu tranh quan trọng nhất của chúng ta lúc này là chính nghĩa, là tuân thủ luật pháp quốc tế, là quyết tâm rất rõ ràng giải quyết bằng biện pháp hòa bình.
Chỉ duy nhất một điều chúng ta không nhân nhượng đó là chủ quyền lãnh thổ. Có thế mạnh đó, chúng ta sẽ có được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, chúng ta cũng sẽ dần dần làm cho Trung Quốc hiểu những điều kiện không nhân nhượng mà Việt Nam đưa ra là hoàn toàn chính đáng.
Mục đích của chúng ta là bảo vệ chủ quyền một cách chính đáng theo luật pháp quốc tế quy định mà không để xảy ra xung đột đáng tiếc.
* Vậy yếu tố “ý thức hệ” có liên quan như thế nào trong việc giải quyết những vấn đề tồn tại giữa Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt là vấn đề tranh chấp trên biển?
- Rõ ràng di sản quý báu hàng đầu mà Việt Nam và Trung Quốc có được chính là sự tương đồng ý thức hệ. Điểm tương đồng đó đã tạo ra mối quan hệ đặc biệt giữa ta và Trung Quốc, nhất là thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Nền tảng di sản đó chi phối cách ứng xử của hai nước. Một trong những đặc trưng của ý thức hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nếu có được một người bạn XHCN rất lớn bên cạnh ủng hộ và hợp tác cùng có lợi thì sẽ vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Tôi nghĩ rằng khi đã là người cộng sản với nhau, để giải quyết bất cứ vấn đề nào đó mà gọi nhau là đồng chí, còn hơn là quay lưng không nhìn nhau hoặc đập bàn đập ghế “ngài” và “tôi”. Nhân đây, tôi cũng muốn nhắc lại rằng về mục tiêu của đối ngoại, lần đầu tiên mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu rõ trong cương lĩnh và báo cáo chính trị tại đại hội Ðảng. Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Ðại hội XI cũng đặt mục tiêu đối ngoại là “vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh’”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau.
Dự báo thêm nhiều nước can dự

"Thế mạnh và công cụ đấu tranh quan trọng nhất của chúng ta lúc này là chính nghĩa, là tuân thủ luật pháp quốc tế, là quyết tâm rất rõ ràng giải quyết bằng biện pháp hòa bình. Chỉ duy nhất một điều chúng ta không nhân nhượng đó là chủ quyền lãnh thổ "
* Nhìn lại hoạt động đối ngoại trong năm vừa qua, ông ấn tượng điều gì?
- Năm 2012 là năm có nhiều sự kiện ngoại giao quan trọng và cũng là năm có nhiều lễ kỷ niệm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước. Một trong những sự kiện được xem mở đầu cho một năm kỷ niệm ngoại giao đầy thành công của chúng ta mà tôi tham dự là lễ khánh thành khu di tích Đoàn 125 Campuchia tại Long Giao, Đồng Nai ngày 2-1-2012.
Tôi đã từng chiến đấu, công tác gắn bó với Campuchia, nhưng lúc đó quả thật tôi chưa hiểu hết, chưa nhận thức hết được tầm vóc vĩ đại của cuộc chiến tranh mà chúng ta không mong muốn, cuộc chiến tranh để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ nhân dân ta, và sau đó là cuộc chiến tranh để cứu cả một dân tộc khỏi họa diệt chủng do Khmer Đỏ gây ra.
Qua lễ kỷ niệm này, được nghe tâm sự của những người bạn Campuchia tôi hiểu rõ hơn, tự hào hơn về đất nước ta, về khả năng tự bảo vệ mình đồng thời sẵn sàng giúp đỡ bạn bè, láng giềng khi gặp nguy hiểm, bất chấp những khó khăn mà chúng ta phải đối mặt.
Chính từ tinh thần quốc tế trong sáng này, từ những hi sinh xương máu này chúng ta mới có được vị thế quốc tế, có được hòa bình ổn định và quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng như hiện nay.
Điều này càng thể hiện rõ trong những ngày này khi chúng ta sống trong không khí kỷ niệm 40 năm chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Mỗi người cảm nhận chiến thắng oanh liệt này một cách khác nhau, riêng tôi có cảm nhận là một quốc gia dù nhỏ, dù còn nghèo, còn khó khăn nhưng khi người dân có quyết tâm, có được lòng tin vào khả năng bảo vệ Tổ quốc, có khát vọng chiến thắng để giành lấy hòa bình thì họ sẽ đánh bại mọi kẻ thù xâm lược dù mạnh đến đâu.
* Ông dự liệu như thế nào về tình hình khu vực trong năm 2013, nhất là vấn đề biển Đông?
- Tình hình khu vực sẽ tiếp tục sôi động theo những can dự của các nước lớn vào khu vực. Ngoài những gương mặt quen thuộc, dự báo năm nay sẽ có những quốc gia khác bước chân vào rõ ràng hơn như Ấn Độ, Nga, các nước lớn khác như Anh, Pháp, Đức, Canada...
Họ sẽ đến đây, mong muốn can dự vào vì họ thấy rằng trong “thế giới phẳng” thì lợi ích không phải nằm sau phạm vi biên giới, mà lợi ích nằm ở toàn cầu nếu biết cách ứng xử. Theo đó, xu hướng hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển của khu vực sẽ có chiều hướng sôi động hơn, tốt hơn. Vị thế của các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam, sẽ tiếp tục được nâng cao.
Vấn đề biển Đông vẫn sẽ luôn được quan tâm trên các diễn đàn song phương và đa phương không chỉ của các nước châu Á - Thái Bình Dương, không chỉ của các nước có biển Đông. Việc tranh chấp lãnh thổ, như nhiều lần đã nói, nếu là tranh chấp hai bên thì hai bên giải quyết, tranh chấp nhiều bên thì nhiều bên giải quyết, nhưng cần nằm trong mục tiêu chung là hòa bình, ổn định không xung đột và cần có sự hợp tác giữa các nước.
* Thưa ông, ông muốn nói gì với ngư dân, nhất là ngư dân Việt Nam hoạt động ở vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa?
- Ngư dân Việt Nam có quyền hoạt động trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, trong đó có khu vực Hoàng Sa và Trường Sa, và có quyền đánh bắt ở khu vực biển quốc tế theo đúng luật quốc tế quy định. Đây là những quyền không ai có thể bác bỏ.
Có một điều quan trọng hơn, ngư trường của ngư dân là đất nước mình, ngoài chuyện đánh bắt cá, họ là những người trực tiếp đóng góp vào việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, những người ở trong bờ mang ơn họ về điều đó. Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của ngư dân đánh bắt cá ở những vùng như vậy. Tuy nhiên, ngư dân không được làm những điều gì sai luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam.
* Ông có ước vọng gì cho năm mới 2013?
- Không có gì khác ngoài ước vọng chung của mọi người Việt Nam là đất nước ta tiếp tục ổn định, nền kinh tế ấm lên, đời sống khá hơn. Tôi mong đất nước ta tiếp tục mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, vị thế quốc tế của đất nước ta ngày càng được nâng cao, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc có bước phát triển tốt đẹp hơn, thúc đẩy hợp tác về kinh tế trên cơ sở hợp tác tốt về chính trị, từng bước giải quyết vấn đề biển Đông.
ĐÀ TRANG - VÕ VĂN THÀNH
 (thực hiện)

> TỐC LỰC THỜI GIAN VÀ LỰC CẢN TƯ DUY

* Bùi Văn Bồng
Lại hết năm cũ. Lại bước sang năm mới. Nhanh. Rất nhanh. Thời gian không đợi con người.
Thời gian cứ đi, tư duy nằm lại. Chậm sinh ra, có khi không chịu sinh ra. Tồn tại như không tồn tại, ảo và thực. Đi chậm nhất, siêu thực nhất vẫn là tư duy. Tốc lực thời gian nhanh, nhưng rất đều đặn. Tư duy tự tạo ra sức ì, và phát tiết nhanh hay ngấm chậm, thật-giả, hoặc đi lùi tùy hứng, thường bỏ mất, lướt qua những yếu tố tùy cơ.
Tư duy không tự tạo ra vận tốc, chính vận tốc cuộc đời buộc tư duy phải đổi thay. Nhưng trong quy trình ấy, bản thân tư duy lại tréo ngoe sinh ra ma sát nội tại, gây ra lực cản cho chính mình. Xã hội văn minh, phát triển nhờ tư duy, nhưng hủy hoại, kìm bước của  xã hội, tự hủy diệt loài người cũng chính là tư duy. 
Con người nặn ra, đẻ ra hết chủ nghĩa này đến luận thuyết nọ, hết trường phái này đến lý luận kia. Nhưng, con người lại thường quên rằng, trong vũ trụ bao la, trong siêu nhiên thái cực, con người không bằng hạt cát, đời người như hạt bui bay trong gió, thoáng qua, tan biến. Cái khối óc của con người là hình hài và cấu trúc hư vũ trụ, cũng sinh ra, phát triển, vận hóa theo vũ trụ. Nhưng, tư duy từ các nhánh rẽ đầy chủ quan của nếp nhăn não trạng lại rất vô hình, mỏng manh, tưởng thực mà ảo, tưởng quyền biến mà dễ tan biến. Tưởng dồi dào, nhưng lại chẳng có gì.
 
Con người tự trói mình bằng tư duy của chính mình. Trời không bắt, thượng đế không hạn chế, nhưng tư duy con người đã làm mất quyền tự do mà trời đã ban phát. Con người tự trói mình bởi tư duy. Người chết rồi, luồng tư duy vẫn lan truyền, biến ảo, dịch chuyển mọi hướng, như hơi sương bay khắp nẻo trong cuộc sống xã hội. Nó có sức xuyên, sức công phá, lại như thứ hóa chất biến màu, biến chất. Các thứ chủ nghĩa đều do tư duy sinh ra, rồi lại bị chính tư duy gạt bỏ. Đồ thị của tư duy nằm trong quy luật vận hóa của vũ trụ, nhưng nằm ngoài ý muốn con người. Cuộc sống sản sinh ra tư duy, nhưng tư duy không dễ gì mà làm thay đổi cuộc sống.
Không có luận thuyết nào đúng với mọi thời đại. Càng không có chủ nghĩa nào trường tồn mãi mãi, hoặc trở thành bất biến độ bền, mặc định vị trí như sao bắc cực. Cái mà người ta gọi là “kim chỉ nam” chẳng qua cũng chỉ là một dạng tư duy trong thời điểm và bối cảnh. Đừng bao giờ vội vàng đưa ra hoặc giữ khư khư những áp đặt chủ quan, những giáo điều, bảo thủ! Tư duy, luận thuyết, chủ nghĩa này kia sẽ không có cái gì thành “kim chỉ nam” cho mọi hoàn cảnh, mọi thời đại. Ngay như trái đất cũng vậy, chỉ là hành tinh nhỏ nhoi giữa vũ trụ, ngày 21-12 mới rồi mà đúng như dự đoán của người Maya, ngày tận thế, thì dù cho đại tư bản kếch xù nhất, quyền lực nhất, độc tái nhất thế giới chưa ai đụng đến được cũng chỉ giây lát bị biến thànnh tro bui mà thôi.
Thời gian đều đặn, nhưng con người khó theo được tốc lực của nó. Tư duy khi hiện hữu, khi tan biến, lúc vọt nhanh, khi biến dạng, tụ tan thất thường. Có mà như không có, tưởng không có lại thấy có! Sự thực dụng, lòng tham của con người tự bản thân nó đã sinh ra lực cản của tư duy. Tư duy nông cạn, chủ quan, nóng vội đã nguy hại cho xã hội, kìm hãm sự phát triển; nhưng đã vậy còn bảo thủ, cực đoan thì tác động nguy hại tăng lên cấp số nhân. Kiểu tư duy này nếu rơi vào bậc đế vương thiên hạ thì ngược quy luật, mất dân chủ, áp đặt, sinh ra độc tài, gây tội ác mà tưởng như giữ vững lập trường, tưởng như kiên định, có bản lĩnh, có uy quyền trước thiên hạ! Tư duy kèm hành động như thế thường là kẻ quan quyền nặng cá nhân chủ nghĩa, tham lam, tự cho mình cái quyền đứng trên thiên hạ, nhiều khi dấn lên thành tội ác mất hết nhân tính. 
Ai đó bảo rằng: “Nếu có ước muốn trong cuộc đời này, sẽ mãi ước muốn cho thời gian trở lại…”. Điều đó không thể! Lịch sử chỉ có đi tới, không bao giờ lặp lại. Như là một định luật, thời gian tuân theo vòng xoay của tạo hóa mà không thể nào cho người ta níu kéo lại. Nói như thế để những ai đang hưởng trọn những phút giây tuyệt vời của cuộc đời mình hôm nay, phải biết gìn giữ, trân trọng và quyết thực hiện cho được chủ đích, hoài bão, những mơ ước có căn cứ của mình. Con người tự cho là đủ, đó là hạnh phúc. Lòng tham, cái ác chen vào tư duy như thuốc độc, như rắn hổ mang tích độc đầu lưỡi. Đừng để thời gian trôi qua một cách nhạt nhẽo và vô vị, để rồi không thể nào níu kéo lại được. Lại nhắc, bởi thời gian không đợi người.
Lại một năm nữa qua đi, năm mới bắt đầu. Lời chúc tụng nhau Tết Nhâm Thìn con như còn nghe rõ mồn một, như chưa ra khỏi cửa, cánh hoa năm ngoái rụng còn đó, đã tiếp nhận lời chúc tết năm Quý Tỵ. Rồng bay đi, Rắn trườn tới. Cứ như vậy đều đặn, lặng lẽ, đúng quy trình. Riêng con người lại dễ lầm tưởng, rất chủ quan, tự hãnh, cho rằng trong vũ trụ bao la chỉ có họ - con  người, mới là Cao Siêu, Vĩ Đại!
BVB

LẬP LÀNG LẬP PHỐ LẬP VĂN

PHẠM XUÂN NGUYÊN


 chuyen nha qeCuốn sách này tập hợp những cái truyện của Nguyễn Quang Lập gồm những truyện ngắn hư cấu và những hồi ức được cấu trúc như truyện ngắn, có cái viết lâu đã hơn hai chục năm, có cái mới viết gần đây. Những cái viết này đều đã in trên báo và xuất bản vào sách. Tập hợp lại lần này thì cả tập truyện là nói chuyện làng chuyện phố.


Lập, như anh và tôi, như phần lớn người Việt ta, sinh ra và lớn lên ở một làng quê. Có nghĩa anh trực tiếp có quê ở làng, đích thị nơi ấy là anh được cha mẹ chôn nhau cắt rốn, và từ đấy anh bước ra thế giới, bước vào đời. Hai chữ “làng quê” đúng nghĩa là thế. Làng quê ấy thời anh tuổi nhỏ và tuổi mới lớn lại đang trong thời chiến tranh. Mà anh lại sinh ra vào khoảng giữa của hai cuộc chiến tranh, chống Pháp vừa xong mấy năm đã đến liền chống Mỹ. Thế là nếp sống làng của nông thôn Việt Nam bao đời bị bom đạn và cái sống thời chiến đảo lộn, xới tung và hủy hoại. Mảng truyện hồi ức trong tập chính là Lập làng vậy. Những câu chuyện thời nhỏ tuổi học sinh trường làng ở vùng quê Ba Đồn cạnh dòng sông Gianh, ở làng Đông sơ tán, ở dãy núi Chóp Ri thuộc huyện Quảng Trạch (Quảng Bình) đã được người đàn ông giữa tuổi “tri thiên mệnh” khơi lại, dựng dậy trong các truyện hồi ức với cái nhớ quá vãng se sắt và cái buồn hiện tại tê tái. Nghèo đói, cơ cực đã đành, cuộc sống nông thôn ngày trước, lại là ở vùng quê miền Trung đất đai cằn cỗi, thời tiết khắc nghiệt, thì sự chống chọi với hoàn cảnh tự nhiên để sống đã là cả một cuộc đấu tranh trường kỳ và nhẫn nại. Nhưng sự đau khổ, tủi phận người trong một hoàn cảnh xã hội mang nhiều ngộ nhận, có cả phần tăm tối ngây thơ nông nổi trong nhận thức, lại diễn ra ở nông thôn thời chiến mới là cái đọng lại sâu nhất, đậm nhất, nhức nhối nhất ở mảng chuyện làng của Nguyễn Quang Lập. Phần nhiều những chuyện kể ở đây được nhìn qua con mắt trẻ thơ, được hồi nhớ từ tuổi học trò, nghĩa là từ sự trong trẻo, hồn nhiên đến ngây ngô của những đứa trẻ bắt đầu nhìn đời và khám phá thế giới, cả tự nhiên và xã hội. Lập làng bắt đầu tạo ra cho người đọc quen với một cái làng có thật của mình thành một cái làng trong văn chương, ở đó nhà văn khai thác đến tận cùng các chất liệu kỷ niệm, hồi ức, để dựng lên những nhân vật mang số phận chung. Những con người tử tế và khốn nạn, may mắn và bất hạnh, hiền lương và độc ác. Thời nào ở đâu cũng vậy, từ làng ra phố.


Lập phố là chuyển dời cái nhìn từ người dân quê sang người thị dân, khi chàng trai rời làng ra phố sống. Người phố thì phần nhiều cũng là người quê ra, không thì cũng là người còn mang nặng gốc gác quê, vả chăng phố thị nước ta vẫn nặng chất quê, gọi phố làng hay làng phố là hợp. Cái lộn xộn của phố giống ở làng, thêm cái bát nháo riêng có của phố nữa, khiến cho bức tranh đời sống và hình dạng con người ở phố phơi bày vừa những nét cố hữu vừa thêm những nét đặc thù. Chuyện phố vì thế vẫn là chuyện người nhưng trong cảnh phố. Những bần cùng cơ cực như bệ rạc hơn. Những thủ đoạn gian manh như trơ tráo hơn. Những đau đớn quằn quại như thảm thương hơn. Những lòng tốt tình thương như hiếm hoi hơn. Thực ra chuyện phố cũng là chuyện làng đấy thôi, và con mắt tấm lòng người viết ra đi từ làng dõi vào phố vẫn là xót thương cho những phận người lam lũ, vất vả, nhỏ nhoi. Lập phố ở đây là phố Hà Nội, nơi anh có thời gian định cư gần mười lăm năm, cố nhiên với tư cách nhà văn phố của anh còn được bổ sung bằng những mặt người mặt phố nơi các thành thị anh đã từng đến, từng sống qua.


Lập văn tạo nên làng ấy phố ấy riêng thành một kiểu, không trộn lẫn với ai khác. Một giọng điệu tưng tửng, cười cợt bề mặt bề ngoài mà đau đớn, day dứt bề trong, bề sâu. Một cách viết “khẩu văn” ở những truyện hồi ức với lối kể điệu nói, với cách dùng tiếng địa phương, với những điệp ngữ điệp khúc giữ nhịp và giữ ý. Một nghệ thuật cấu tứ truyện ngắn nhiều đột ngột, bất ngờ, nhất là cái kết. Cái truyện như “Quê choa chí dị” là một thí dụ rõ nét của lối viết Lập văn hiện nay, chuyện thì ai cũng biết, nhưng truyện thì xoáy sâu. Chi tiết, cái cốt yếu của văn xuôi, cốt tử của truyện ngắn nhất là loại truyện viết lối cổ điển, Lập văn giỏi và “độc” ở chi tiết, như ở đồng bạc 5 hào trong tay cô học trò chết bom, hay ở đứa em chết trên vai đứa anh cõng lết dọc đường. Những chi tiết bật máu đau. Lập văn khiến đọc truyện có thể tiếng cười bật ra, tiếng khóc cố nén, tiếng thở dài cuộn lại, và niềm bi phẫn có thể sôi trào. Có thể đọc Lập văn như xem một phòng tranh trưng bày những mặt/khuôn mặt người ở làng, ở phố, ở quanh ta, ở trong đời. Mỗi truyện một mặt và tất thảy đều bị biến dạng vì nhân thế. Không tin, cứ đọc theo kiểu soi mặt mà xem, người đọc sẽ thấy có mặt mình trong đó.


Và lập làng lập phố lập văn – đó là Nguyễn Quang Lập. Lập là... người của làng, người của phố, người của văn. Người của Người. “Người là thật, phải thật với người” (Nguyễn Huy Tưởng). Đường đời đường văn của Nguyễn Quang Lập chú theo một đích ấy, và anh như đã chạm được. Anh chạm khi được người đọc văn thích thú, đồng cảm và chia sẻ những riêng tư, cá nhân thành chuyện làng chuyện phố chuyện đời chung cả cõi người.


 11. 2012


P/S: Cô Gia Hòa thuộc Sài Gòn Media books thông báo: Sách Chuyện nhà quê đã chuyển hết cho Fahasa phát hành, vì vậy bà con cần liên hệ với Fahasa để mua, đừng liên hệ với cô Gia Hòa nữa.

> KHI TỜ LỊCH CUỐI CÙNG RƠI XUỐNG


MINH DIỆN
             Thế là tờ lịch cuối cùng  đã rơi xuống!
              Năm 2012 qua rồi!
             Thế giới thở phào một nụ cười đàm tiếu về lời tiên trí của người cổ đại Maya: Trái đất bắt đầu từ năm 3114 trước công nguyên, tới 21-12-2012 sẽ  “Khải huyền” dìm loài người trong đêm giá buốt!
Trời vẫn sáng. Mặt trời vẫn mọc và lặn như thường nhật. Trái đất chằng lạnh đi mà lại nóng lên. Nóng do tầng ô zôn bị xuyên thủng, và nóng từ những cái đầu lắm mưu toan tham vọng! Những mâu thuẫn theo quy luật, và những mâu thuẫn phản quy luật bung ra, gây nên những biến thiên trong suốt 365 ngày qua.
              Bên bờ Địa Trung Hải, nước Syria vẫn chìm trong bạo lực, khiến 42.000 người dân đã thiệt mạng 3 triệu người phải lưu vong, Bashar al-Assad quyết không  từ chức, dù kẻ chống lưng Putin nổi nóng. Có lẽ gã độc tài này thích chui xuống ống cống như Gaddafi chăng?
              Xét cho cùng chẳng chính khách nào muốn từ bỏ quyền lực! Họ cố bám víu  bằng  mọi cách.
             Ngày 7-5-2012, bằng thủ đoạn chơi trò tung hứng. cựu sỹ quan tình báo Putin đã quay lại điện Kremli sau một vòng xoay tai tiếng, với chính sách lấy đoàn kết dân tộc làm chìa khóa phát triển nước Nga thịnh vượng.
              Ngáy 14-11-2012, Đảng cộng sảnTrung Quốc, sau khi hạ đo ván nhóm bảo thủ muốn quay lại thời Mao-it, do Bạc Hy Lai cầm đầu, đã tổ chức Đại hội đảng lần thứ 18, chuyển quyền cho nhóm con ông cháu cha thực dụng, đứng đầu là Tập Cận Bình, làm cho không chỉ 1 tỷ 350 triệu người Trung Quốc mà cả thế giới quan tâm .
               Tổng thống  Mỹ Barack Obama đắc cử nhiêm kỳ 2, sẵn sàng đối đầu với “Vách đá tài chính” trong nước và điều chỉnh về chính sách đối ngoại, đặc biệt là với Trung Quốc, bằng chính sách quay lại Đông Á và biển Đông. Nhìn gương mặt khắc khổ và lúc nào lo toan của ông già hơn cái tuổi 51.
                Tương phản với gương mặt nhân hậu, cương nghị và già trước tuổi ấy, là  khuôn  mặt bụ bẫm như  con nít  Kim Chang Un, lãnh tụ Triều Tiên, đã phóng tên lửa tầm xa, được nhà lý luận Quân đội nhân dân Việt Nam, đại tá Trần Đăng Thanh bốc thơm là làm cho “các nước lớn phải mất ăn mất ngủ và chúng ta phải học tập” (!?0. Đối với viên đại tá này, việc Tung Quốc vẽ đường lưỡi bò trên Passpore,  bộc lộ tham vọng liếm sạch biển đông, cắt cáp ngầm tàu thăm dò địa chấn của việt nam,  cũng là “ thể hiện tình hữu nghị truyền thống” ?!
              Năm nay, một sự kiện làm hởi lòng dân, nhưng  thắt ruột bọn độc tài, là cuộc cải cách toàn diện chính trị, kinh tế, xã hội ở Myanma, như một một điểm sáng dân chủ và nhân quyền, một cuộc cách mạng tự thân đầy nhân bản, không cần sự tác động của bất kỳ thế lực thù địch nào.
              Lướt một vòng “cưỡi ngựa hoa” trên thế giới, thấy  vui, buồn, lẫn lộn. Đó là chuyện xứ người.
              Ngoảnh mặt về xứ mình, thấy năm 2012 cũng chả kém ấn tượng.
               Ngay đầu năm, ngày 5-2012,  đã diễn ra “một trận đánh đẹp có thể viết thành sách quay thành phim” ở Tiên Lãng (Hải Phòng) do Đại tá Giám đốc công an thành phố Đỗ Hữu Ca, Bí thư huyện ủy Bùi Thế Nghĩa, Chủ tịch huyện Lê Văn Hiền trực tiếp  chỉ huy. Đó là vết khắc ô nhục vào biên niên sử  2012.
              Bốn phát súng hoa cải của Đoàn Văn Vươn dấy lên một hình thái đấu tranh giữ đất mới, quyết liệt hơn, thay vì đi khiếu kiện tập trung: Khói lửa ngùn ngụt Văn Giang (Hưng Yên), vành khăn tang Vụ Bản (Nam Định) nhát dao liều chết ở Thăng Bình (Quảng Nam)  khỏa thân ở Cần Thơ. Tự thiêu ở Sóc Trăng… và mới đây, gạch củ đậu, đá bình vôi trút như mưa xuống đội quân cường chế thu hồi đất ở Đông Triều (Quảng Ninh).
              Tức nước vỡ bờ là lẽ thường tình!
              Năm 2012, nền kinh tế Việt Nam tăng trường 5,03 % , lạm phát tụt xuống 6,81%,  nhưng vẫn là một bức tranh ảm đạm, hay như các đại biểu Quốc hội nói: Như  một cỗ xe lao xuống dốc không  phanh và như một người thiếu máu trầm trọng.
               Tỷ lệ đói nghèo tăng lên hai con số, hàng trăm ngàn doanh nghiệp nhỏ và vừa phá sản kéo theo hàng mấy triệu công nhân thất nghiệp.
               Theo chân các Tập đoàn nhà nước bung bét như Vinasin, Vinaline, Điện Lực, Sông Đà, Dầu khí, các Tập đoàn và Tổng công ty tư nhân một thời vang bóng Bianafishco, Mai Linh tuyên bố phá sản.
               Hàng loạt đại gia năm ngoái tiêu tiền bốc rời như Thúc Sinh,  dọc ngang chả biết trên đầu có ai như Từ Hải, đã phải cho tay vào còng, như Nguyễn Đức Kiên (Bầu Kiên) cầm đầu nhóm thao tùng ngân hàng, Phạm Văn Thụ vua thép Hải Phòng, rồi chủ tịch chứng khoán SME Phan Huy Chí, chủ tịch chứng khoán cao su Phan Minh Anh Ngoc…



               Nhưng phải nói ấn tượng nhất năm 2012 là “Cuộc tắm rửa” của Đảng cộng sản Việt Nam, với quyết tâm tìm cho ra, tẩy cho sạch một “bộ phận không nhỏ phai nhạt lý tưởng,  suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống” như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, hay như Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tả bằng hình ảnh: “một bầy sâu ăn hết phần của dân!”.
              Gần như cả năm đảng tập trung lo việc đó, một bộ phận giúp việc được huy động, một chiền dịch tuyên truyền rầm rộ trên các phương tiện thông tin đại chúng.
               Hội nghị trung ương 4. tiếp đến Hội nghị trung ương 5, 6 và những tuần Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương đảng đóng kín cửa kiểm điềm, đảng viên và nhân dân cả nước nín thở, chờ nghe tên, thấy mặt cái bộ phận không nhỏ hại nước hại dân.
               Nhưng mỉa mai thay, bẽ bàng thay là chỉ nhìn thấy gương mặt mếu máo của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trên TiVi, với thông báo rằng “Ban chấp hành Trung ương Đảng bỏ phiều không thi hành kỷ luật Bộ chính trị và đồng chí X”.
                Năm 2012 có một trận thua đẹp của Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Mai Văn Ninh, khi ông nhường phần thắng cho dân trong trong cuộc biểu tình của 400 bà con tiểu thương. Hình ảnh Bí thư Tỉnh ủy Mai Văn Ninh áo sơ mi ngắn tay nắm tay dân, nghe dân nói, trái ngược với cái mặt vênh váo của Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghi chửi dân: “Hỏi người sử dụng ô tô lấy đâu ra nhiều tiền như vậy để mua? Trong khi mới chỉ đề cập đến thu phí đã kêu ầm lên!”,  nó càng tương phản với những gương mặt lạnh lùng núp phía sau đám công an, cảnh sát hùng  hổ đàn áp dân. Còn Chủ tịch thành phố Nguyễn Thế Thảo buông ra những câu nói khô khóc, vô cảm , thiếu trách nhiệm: “Biểu tình yêu nước là do thế lực thù địch xúi giục, là ăn tiền của thé lực thù địch”, tập trung đông người khiếu kiện đất đai “làm xấu mặt thủ đô”.

         Năm 2012 đặc biệt có nhiều câu nói ấn tượng thể hiện “cái tâm cái tầm” của các chính khách Việt Nam,  nhưng có một câu nói văng tục đụng đến "Tự do" gây phản cảm và vô chính trị nhất, biểu hiện điển hình nhất về sự xuống cấp đạo đức, nhân cách và văn hóa lối sống của quan chức là của Trung tá công an Vũ Văn Hiền, Phó công an Phường 6, quận 3 thành phố Hồ Chí Minh mà ai nghe cũng tá hỏa; cuối năm cả thiên hạ phải lắc đầu bởi những phát biểu tùy tiện, hồ đồ của Đại tá PGS, TS Trần Đăng Thanh... 
                Chào 2013, mỗi người thêm một tuổi !
                Thêm tuổi thêm sự từng trải, thêm trí khôn, làm việc thiện đừng cộng thêm tuổi tham quyền cố vị và lảng tránh trách nhiệm, hại nước hại dân!
                 Tôi được tin chị Thương và Hiền vợ anh Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Qúy có lời mời những người trong năm 2012 đã có lòng chiếu cố tới họ, giúp đỡ họ bằng vật chất và tinh thần, ngày 5-1-2013, kỷ niệm đúng một năm ngày tang thương Cống Rộc,  về dự buổi họp mặt với gia đình ở căn nhà tôn mới dựng trên nền ngôi nhà  bị đập nát.  Từ trong đổ nát vẫn nhen mầm sống và ấm áp tình người! Tôi hy vọng năm mới được khởi đầu bằng một ngày vui!
                                                                                  1-1-2013
                                                                                       M D
-----------------------------------


> 10 vấn đề xã hội được quan tâm nhất năm 2012

(Dân trí) - 2012 - một năm thực sự nhiều sóng gió với những lo ngại về căng thẳng trên biển Đông, an toàn thủy điện, tội phạm phức tạp… Nhưng năm 2012 cũng đón nhận niềm vui khánh thành công trình thủy điện lớn nhất nước và cũng là năm có nhiều quyết sách quan trọng.
Dưới đây là 10 vấn đề xã hội được Dân trí bình chọn là những sự kiện thu hút sự quan tâm nhất trong năm 2012:
Ngày 16/1/2012, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Nghị quyết nhấn mạnh nhóm giải pháp tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên nhằm tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh…
10 vấn đề xã hội được quan tâm nhất năm 2012
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đại biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)
Hoạt động tự phê bình và phê bình sau đó đã được thực hiện tới các chi bộ Đảng trong cả nước. Bộ Chính trị, Ban Bí thư nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi trước Ban Chấp hành Trung ương, trước toàn Đảng và toàn dân về tất cả những yếu kém, tồn tại trong công tác xây dựng Đảng, về những suy thoái, hư hỏng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên như Nghị quyết Trung ương 4 đã nêu. BCH Trung ương cũng tự kiểm điểm và nhận phần trách nhiệm của mình trong việc để xảy ra và chưa ngăn chặn được những khuyết điểm, yếu kém.
Tiếp xúc cử tri Hà Nội trước kỳ họp Quốc hội cuối năm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, phê bình và tự phê bình không phải làm một hai lần là xong và kết quả đạt được mới là bước đầu.
Năm 2012 Trung Quốc đã có hàng loạt hành động vi phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam: phê chuẩn thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” với phạm vi quản lý bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam; công bố mời thầu 9 lô dầu khí nằm sâu vào thềm lục địa của Việt Nam; bầu Chủ tịch HĐND và Thị trưởng cái gọi là "thành phố Tam Sa;  gây đứt cáp thu nổ địa chấn tàu khảo sát địa chấn Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); cho xuất bản bản đồ “Tam Sa”…
Các tàu cá xếp hàng trước khi ra khơi đến quần đảo Trường Sa. (Ảnh: China Daily)
30 tàu cá của Trung Quốc xếp hàng chuẩn bị xâm phạm quần đảo Trường Sa. (Ảnh: China Daily)
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần lên án những hành động sai trái của của phía Trung Quốc, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cuộc đọ sức giữa bầu trời và mặt đất trong 12 ngày đêm cuối 1972 ở Hà Nội đã được báo chí tái hiện với những góc nhìn cụ thể, sinh động, đầy tự hào thông qua những hình ảnh tư liệu, những câu chuyện của nhân chứng sống cùng những phân tích đa chiều của các học giả. Chiến công bắn hạ 34 máy bay B52 của Mỹ (một vũ khí chiến lược, chưa từng bị bắn hạ trước đó) trên bầu trời Hà Nội tiếp tục được nhắc đến như kỳ tích có một không hai, còn nói như một đại sứ của một nước bạn anh em thời đó, Hà Nội đã đập tan vĩnh viễn câu chuyện thần thoại về những B52 của Mỹ.

Xác máy bay B52 bị bắn rơi ở đường Hoàng Hoa Thám (Hà Nội) ngày 27/12/1972
Xác máy bay B52 bị bắn rơi trên đường phố Hà Nội ngày 27/12/1972 (Ảnh tư liệu)
Tại lễ mít tinh kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh: “Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” mãi mãi là biểu tượng của ý chí kiên cường, bất khuất, thông minh, sáng tạo; là niềm tự hào của dân tộc ta, nhân dân ta, quân đội ta, là một trong những chiến công hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam anh hùng…”.
Sau vụ cưỡng chế đầm tôm của ông Đoàn Văn Vươn (xã Vinh Quang, Tiên Lãng, Hải Phòng) khiến 4 cảnh sát và 2 cán bộ huyện đội bị thương, dư luận đã đặt lại vấn đề, việc thu quy trình thu hồi đất của cơ quan chức năng có đúng pháp luật? UB TƯ MTTQ Việt Nam lập tức vào cuộc giám sát, nhiều chuyên gia, luật sư lên tiếng phân tích về vụ việc… Thủ tướng sau đó có kết luận cuối cùng nêu nhiều sai phạm của chính quyền, chỉ đạo xử lý triệt để.
Huyện Tiên Lãng thanh tra quá trình sử dụng đất của gia đình ông Vươn
Khu đầm của gia đình ông Đoàn Văn Vươn.
Việc thu hồi đất theo đó được hủy bỏ, một số lãnh đạo địa phương bị đình chỉ công tác, cách chức, khởi tố… Sau vụ việc, tình hình khiếu nại tố cáo về đất đai trong cả nước cũng tăng đột biến. Kết quả kiểm tra, gần 30% những vụ việc khiếu kiện tồn đọng phức tạp nhất là do sai sót của chính quyền. Chính phủ quyết định trình Quốc hội xem xét sửa luật Đất đai sớm hơn kế hoạch.
Cuối tháng 11, Quốc hội thông qua Nghị quyết về lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm. Theo đó, Quốc hội sẽ lấy phiếu tín nhiệm hàng năm đối với các chức danh lãnh đạo cao nhất của nhà nước (gồm 49 người). Việc lấy phiếu sẽ được thực hiện ngay trong kỳ họp thứ 5 (tháng 5 tới).
Lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm được kỳ vọng sẽ tăng cường hiệu lực giám sát của Quốc hội đối với việc thực hiện chức tránh nhiệm vụ của cán bộ do các đại biểu bầu ra, giúp sàng lọc, loại bỏ những cán bộ lãnh đạo kém hiệu quả, mất uy tín cũng như mở ra hướng mới cho văn hóa từ chức.
Tuyên chiến mạnh hơn với tham nhũng
Từ “tham nhũng” tiếp tục được nhắc nhiều lần khi tình hình tham nhũng vẫn được đánh giá là nghiêm trọng, diễn biến phức tạp với nhiều biểu hiện tinh vi. Nhiều vụ việc thất thoát, tiêu cực tại các tập đoàn, TCty thời gian qua được phanh phui. Cuối năm, thông tin chạy công chức hết không dưới 100 triệu đồng từ Trưởng ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội, Trần Trọng Dực cũng làm “xôn xao” dư luận…
Khoản nợ của Vinashin ngoài sức tưởng tượng với nhiều người dân
Khoản nợ của Vinashin ngoài sức tưởng tượng với nhiều người dân
Hội nghị TƯ 5 (tháng 5/2012) đã đưa ra quyết định lập Ban chỉ đạo TƯ về Phòng chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do Tổng Bí thư đứng đầu. Quốc hội đã sửa luật PCTN, bỏ quy định Ban chỉ đạo TƯ trực thuộc Chính phủ.
Việc thay đổi mô hình ban chỉ đạo cùng với việc tái lập Ban Nội chính TƯ được kỳ vọng sẽ tạo bước chuyển mới trong cuộc chiến với nạn tham nhũng.

Gần 95% đại biểu tán thành thông qua luật Phòng chống tham nhũng sửa đổi
Gần 95% đại biểu tán thành thông qua luật Phòng chống tham nhũng sửa đổi (Ảnh: Phương Thảo)
Thủy điện Sông Tranh 2 tích nước được xác định là nguyên nhân gây động đất kích thích tại khu vực huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam. Gần 100 trận động đất lớn nhỏ (trận lớn nhất có cường độ 4,7 độ richter) xảy ra trong khoảng 1 năm qua. Mọi dự báo về giới hạn thời gian, cường độ của động đất tại đây của cơ quan chức năng cũng lần lượt bị thực tế phủ nhận. Người dân hoang mang, lo lắng dù nhiều đoàn khảo sát cũng các cơ quan nhà nước đều khẳng định độ an toàn của đập thủy điện.
Hiện nay, thủy điện Sông Tranh 2 đang ở mực nước chết với cao trình 140m
Ngổn ngang nỗi lo động đất, thấm nước ở thủy điện Sông Tranh 2
Chính phủ đã chủ động chỉ đạo không cho tích nước, “treo” số phận của thủy điện trị giá 5000 tỷ đồng này để tiếp tục mời các chuyên gia quốc tế tới khảo sát, đánh giá về tình hình động đất.
Khánh thành công trình thủy điện lớn nhất Việt Nam
Sau 7 năm thi công, công trình thủy điện Sơn La, đã về đích ngày 23/12. Phát biểu tại lễ khánh thành, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh: “Công trình mang lại cho chúng ta niềm tự hào, là một công trình thuỷ điện lớn nhất cả nước, mang tầm cỡ khu vực do Việt Nam tự thiết kế, thi công, vượt mốc thời gian so với tiến độ được phê duyệt là 3 năm”. 
Toàn cảnh công trình thủy điện Sơn La. (Ảnh: Ngọc Hà/TTXVN)
Toàn cảnh công trình thủy điện Sơn La. (Ảnh: Ngọc Hà/TTXVN)
Dự án xây dựng công trình Thủy điện Sơn La nằm trên địa phận xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Công trình có tổng công suất lắp máy 2.400 MW, sản lượng điện bình quân hàng năm trên 10 tỷ kWh, bằng gần 9% sản lượng điện của Việt Nam năm 2012.
Một số chính sách gây nhiều tranh luận
Thông tư 27 do Bộ Công an ban hành giữa tháng 5/2012 quy định về mẫu chứng minh thư mới có ghi tên cha mẹ nhận phản ứng từ dư luận là xâm phạm đời tư cá nhân. Mẫu chứng minh thư mới cấp thí điểm tại một số quận của Hà Nội đã thể hiện nhiều vướng mắc, bất cập. Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường sau đó nhận khuyết điểm, thiếu sót trong việc thẩm định thông tư này.

Mẫu chứng minh thư mới in họ tên bố mẹ
Mẫu chứng minh thư mới in họ tên bố mẹ (Ảnh: Tiến Nguyên)
Nghị định 71/2012 của Chính phủ có đề cập đến nội dung nâng mức xử phạt ô tô, xe máy mua bán trao đổi nhưng không làm thủ tục sang tên đổi chủ cũng tạo “sóng dư luận” cuối năm. Đại diện Văn phòng Chính phủ thừa nhận những bất cập khi thực hiện quy định trong thực tế cũng như việc giao CSGT xử phạt người đi xe không chính chủ. Hiện, Chính phủ đã “thổi còi” việc xử phạt này và giao Bộ Công an làm thông tư hướng dẫn.
Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp và “lùm xùm” quanh việc bổ nhiệm Dương Chí Dũng
Trong năm 2012, các vụ trọng án như vụ nổ mìn tại Bắc Ninh, vụ sát hại cả gia đình ở Thái Bình… cùng nhiều vụ cướp giật táo tợn đã gây cảm giác bất an cho không chỉ người dân. Tình hình tội phạm nói chung đã trở thành chủ đề “nóng” tại các diễn đàn Quốc hội, HĐND các thành phố lớn. Riêng tại thành phố HCM, sau rất nhiều nhận định về nạn cướp giật ngày càng táo tợn, tàn bạo cùng những bàn thảo, TP đã thành lập lực lượng được xem như lực lượng 141 của Hà Nội.
Ở lĩnh vực kinh tế, vụ bắt tạm giam, khởi tố Nguyễn Đức Kiên, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng thành viên sáng lập ngân hàng ACB về tội kinh doanh trái phép, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng cùng việc khởi tố, triệu tập một số lãnh đạo ngân hàng… đặt ra những vấn đề về tổ chức quản lý hết sức cấp bách đối với hệ thống ngân hàng.
Ông Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam.
Ông Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam, chính thức bị bắt giữ ngày 4/9/2012, sau gần 4 tháng lẩn trốn pháp luật.
Ngày 18/5, cơ quan điều tra khởi tố bị can, ra lệnh bắt ông Dương Chí Dũng, Cục trưởng Hàng hải (nguyên Chủ tịch HĐQT Vinalines) để điều tra hành vi Cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng… Điều dư luận “truy” mạnh sau đó là có hay không việc những dấu hiệu sai phạm của ông Dương Chí Dũng tại Vinalines đã được phát hiện trong quá trình thanh tra đơn vị này của Thanh tra Chính phủ, nhưng ông Dũng vẫn được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Hàng hải. Lãnh đạo Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nội vụ đã phải trả lời báo chí về những vấn đề này, trong khi Tổng Thanh tra Chính phủ cũng bị truy trách nhiệm tại Quốc hội.
Nhóm phóng viên Xã hội

Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

> Trần Đăng Khoa: Nhớ một thời giáo dục thanh khiết

Những nan giải của giáo dục ngày nay, các thầy cô ở trường quê Nam Sách đã giải quyết ổn thỏa từ những năm 60, 70 của …thế kỷ trước.
Trong Blog tuần trước, tôi cùng với nhà khoa học Trần Thanh Thu bàn về việc dạy và học ở Bỉ. Có bạn đọc bảo: Quả là một Thiên đường Giáo dục. Không biết tới bao giờ, chúng ta mới lên tới đó? Xin thưa, cái Thiên đường đó không xa. Đã có thời, chúng ta cũng đã đi qua ngõ cái Thiên đường ấy rồi đấy. Ngay trong mái trường quê của tôi. Bởi vậy, trước khi bàn tiếp về việc dạy và học ở Bỉ, tôi muốn cùng bạn đọc ngoái lại gần nửa thế kỷ, nhìn lại ngành giáo dục quê nhà, ở một góc rất hẹp. Những năm tháng đẹp nhất của tuổi thơ tôi trôi qua trong mái trường quê đó.

Lớp học ban đêm (Ảnh: http://hoabinh.edu.vn/vn)

Đấy là Trường cấp III Nam Sách, nay là Trường THPT Nam Sách. Trường được thành lập từ năm 1962. Mười năm sau, tôi vinh hạnh được là học sinh của trường. Học sinh lớp 8G.
Tôi còn nhớ mãi buổi khai giảng năm ấy. Đó là 7h sáng ngày 1/9/1972. Khi đó, cuộc chiến tranh xâm lược của giặc Mỹ bằng không quân, mở rộng ra Miền Bắc đang vào thời điểm khốc liệt nhất. Bom đạn mù mịt suốt ngày đêm. Chỉ ít thời gian sau, Mỹ dùng máy bay chiến lược B52 rải thảm Hà Nội, Hải Phòng. Nam Sách là mảnh đất kiên cường, ở giữa hai thành phố lớn ấy, lại nằm bên Đường 5, con đường huyết mạch nối Thành phố Cảng với Thủ đô Hà Nội. Một trong những trọng điểm hủy diệt của Không quân Mỹ là hai cây cầu Phú Lương và Lai Vu.
Nam Sách thành trận địa sinh tử, quyết liệt bảo vệ hai cây cầu chiến lược ấy. Xã Ái Quốc và nhiều xã lân cận hóa thành “túi bom” của giặc. Chúng tàn phá bất kỳ lúc nào. Mảnh đất hậu phương, cung cấp người và của cho chiến trường Miền Nam “Thóc không thiếu một cân, Quân không thiếu một người”, giờ cũng đã thành một chiến trường khốc liệt.
Trường cấp III Nam Sách xé lẻ ra thành từng lớp, sơ tán về các làng quê. Có lớp học trong Chùa. Có lớp học ở Nhà thờ Thiên chúa giáo.
Lớp 8G của tôi sơ tán về xã Thanh Lâm. Ngày Khai giảng là buổi lao động tát nước ở giao thông hào và đắp lại những căn hầm kèo bị sạt lở sau một trận mưa lớn đêm trước. Thày Chủ nhiệm Vũ Đình Sâm đứng trên nóc hầm điểm danh học sinh và thông báo lịch trình học tập.
Buổi khai giảng đầu tiên của đời tôi khi mới lẫm chẫm bước chân vào lớp Một cũng là một buổi học độc đáo như vậy. Sau giờ khai giảng, học sinh tỏa về từng lớp để thầy trò làm quen với nhau. “Hôm nay, thầy sẽ dạy các em bài học đầu tiên…”. Bài học đầu tiên của chúng tôi đây: “Ngày khai trường”, rồi “Tổ Quốc Việt Nam”. “Tổ Quốc em đẹp lắm - Cong cong hình lưỡi liềm…”. “Không, các em gập sách lại đi. – Thầy bảo - Bài học này chưa kịp có trong sách Giáo khoa đâu…”.
Hồi hộp quá. Không chỉ trò, mà cả thầy cũng hồi hộp. Thầy dạy và rồi chính thầy cũng phải học. Bài học đầu tiên trong đời. Đó là cách tránh bom. Thầy giúp chúng tôi phân biệt từng hướng rơi của bom. Nhìn hình dạng và đường bay của bom mà biết quả bom ấy sẽ lao xuống đâu. Lúc nào thì thì ngồi in, chụp mũ rơm lên đầu. Lúc nào thì phải chạy. Chạy theo hướng nào để có độ an toàn cao nhất. Rồi thầy dạy chúng tôi cách cứu thương và băng bó vết thương, “ để khi không có thầy bên cạnh, các em còn biết cách cứu bạn và tự cứu mình”. Chúng tôi bắt đầu tập băng bó. Một lũ trẻ lau nhau, trứng gà trứng vịt mà làm rất thuần thục. Vừa làm vừa cười đùa như chơi trò trận giả. Chúng tôi cười vui. Nhưng thầy lại khóc. Khóc thầm. Nhưng nước mắt không giấu được, cứ ầng ậng sau hai hàng mi. Và tôi hiểu một điều rất hệ trọng. Chiến tranh không bao giờ là một trò đùa.
Khi tôi thành học sinh trường Cấp III Nam Sách, chiến tranh đã lên đến đỉnh điểm. Bom đạn mù mịt. Có thể chết bất cứ lúc nào. Nhưng đời sống tinh thần lại ấm áp, bình thản. Lạ thế! Một xã hội trong vắt. Không có tham nhũng. Không có kẻ cướp, đĩ điếm, trấn lột. Và đẹp nhất trong bầu khí quyển trong lành ấy là người lính và người thày. Đó là hai chiến sĩ kiên cường trên hai mặt trận: Chống giặc dốt và giặc ngoại xâm.
Chúng tôi cắp sách đến trường, tiếp nhận cùng một lúc hai nguồn kiến thức lớn. Một nguồn từ sách vở. Đó là những bài học, đúc rút kinh nghiệm sống, là trí khôn của cha ông và của cả loài người, thành nguồn sáng trong lành, tinh lọc qua tâm hồn thày cô rồi tỏa xuống mỗi học sinh. Còn nguồn kiến thức thứ hai, cũng rất quan trọng, mảng kiến thức này không nằm trong giáo án, cũng không có trong sách giáo khoa, nhưng lại tác động đến học trò rất mãnh liệt. Đó là cuộc đời các thày cô. Tấm gương các thày cô. Chính các thày cô đã thành giáo cụ trực quan, dạy chúng tôi làm người.
Thầy nào thì  trò ấy. Khi thầy không gương mẫu, không còn là một vẻ đẹp, thì mọi lời giảng, dù có hay đến đâu cũng thành vô nghĩa.
May mắn cho lũ học trò nhà quê chúng tôi trong những năm tháng gian nan, vất vả ấy mà vẫn có được một ngôi trường nề nếp, quy củ. Nhờ chính sách “hạ phóng” của Bộ Giáo dục, nhiều thầy cô ở thành phố lại tỏa về các miền quê và những vùng sâu vùng xa. Trường Cấp III Nam Sách là một ngôi trường quê, học trò đều là con em nông dân ở mấy làng quê nghèo lam lũ, nhưng nhà trường lại có một đội ngũ giáo viên rất giỏi. Nhiều thầy cô người Hà Nội gốc nhưng lại về bám trụ ở đây, như thầy Độ đường Quán Thánh, cô Nga phố Hàn Thuyên, thầy Tuấn phố Quang Trung, thày Bản phố Hàng Bạc, cô Hằng đường Cầu Giấy.
Tôi không sao quên được thày Độ. Thầy dạy toán. Lên bục giảng, thầy không mang giáo án, chỉ ve vảy hai bàn tay không. Nhưng xin bạn đọc chớ hiểu lầm thầy lười nhác hay cẩu thả. Giáo án nằm hết trong đầu thầy. Cả cuốn sách Giáo khoa toán dày cộp cũng ở trong đầu thầy. Thầy chép bài tập lên bảng mà đâu có nhìn sách giáo khoa. Thầy bảo: “Nếu thầy nhớ nhầm, các em nhắc thầy nhé!”.
Nhưng chẳng bao giờ thầy nhầm. Cái tài lớn nhất của thầy mà tôi rất phục là khả năng biến những gì phức tạp thành đơn giản  dễ hiểu. Tôi nghiệm thấy những người giỏi đều thế cả. Họ có khả năng đơn giản hóa những gì phức tạp. Còn người kém thì ngược lại, ngay cả điều đơn giản, qua họ, cũng thành phức tạp, rối mù. Thày Độ giảng rất thoải mái, nhưng học sinh nào cũng hiểu được. Tôi là một học trò cá biệt, rất dốt toán, mà cũng nắm được bài ngay tại lớp. Còn thầy Tuấn lại có một biệt tài khác mà chúng tôi phục lăn. Thầy dựng Hình, chẳng cần com-pa, thước kẻ, mà hình nào cũng đẹp. Có khi thầy vừa giảng, vừa quài tay ra sau lưng, khoanh một nét thành một Đường tròn tâm O, chuẩn đến mức kinh ngạc.
Trong con mắt chúng tôi, các thầy cô như những vị thánh sống. Cao cả và tinh khiết. Hồi đó có chuyện dạy thêm không? Có! Thời nào chả có những học sinh kém. Với những cô cậu học trò cá biệt ấy, sau buổi học, các thầy cô thường mời ở lại để phụ đạo thêm. Thảng hoặc, có học sinh, do hoàn cảnh khó khăn, vào các buổi tối, thầy còn đạp xe đến tận nhà phụ đạo. Thầy dạy mà không lấy tiền. Có thày còn sẻ cả một phần lương đạm bạc của mình cho học trò mua sắm quần áo hay dụng cụ học tập. Ngày Tết, hay ngày 20-11, học sinh ríu rít đến thăm thầy chỉ có hai bàn tay trắng. Phong bì không và hoa cũng không. Ở làng quê khoai lúa, muốn tặng hoa thầy cũng chẳng có để tăng. Nhưng cả thầy và trò đều vui. Một niềm vui chan hòa, ấm cúng và tinh khiết.
Bây giờ chúng ta hay kêu về nền giáo dục xuống cấp trầm trọng với bao nhiêu vấn nạn. Trong đó có cả những vấn nạn thuộc về nghiệp vụ giảng dạy, như nạn “văn mẫu”, nạn “đọc chép”. Thày đọc và trò chép. Nhà trường đã biến học sinh thành những con vẹt. Đó là những phương pháp giáo dục phản giáo dục tệ hại nhất. Những vấn đề nan giải này, các thày cô ở mái trường quê Nam Sách đã giải quyết rất ổn thỏa từ những năm 60, 70 của …thế kỷ trước.
Tôi rất phục cách dạy văn của thầy Vũ Đình Sâm, chủ nhiệm các lớp  8G, 9G, 10G mà tôi theo học. Dù những năm tháng ấy, trong mái trường này, thầy chỉ là một tên tuổi rất khiêm nhường. Khi nhắc đến những giáo viên giỏi, người ta thường nhắc đến thầy Tham, thầy Soa, thầy Hoạch, thầy Độ, thầy Tuấn, cô Nga, cô Hằng, thầy Đức, cô Thanh, cô Thu…
Và còn rất nhiều thầy cô khác nữa. Thầy Sâm thường khuất trong bóng tối. Bản thân thầy cũng tự giấu mình đi. Nhưng trong con mắt của tôi, thầy là một tấm gương sáng, không chỉ với học trò, mà còn với cả ngành giáo dục. Cách dạy của thầy theo tôi là mẫu mực, đáng để Ngành Giáo dục hôm nay tham khảo. Thầy không biến học trò thành con vẹt, cũng không tự biến mình thành Rô-bốt cứng nhắc. Mọi quy chế, hướng dẫn, quy định của ngành chỉ có ý nghĩa tham khảo quan trọng, còn Giáo viên phải có những sáng tạo riêng, nhằm đổi mới mỗi tiết giảng, truyền đạt kiến thức đến học trò một cách hiệu quả nhất, nhưng lại gợi mở cho các em sự độc lập suy nghĩ và sáng tạo.
Trong tiết giảng, thầy không đọc lại đoạn văn trích. Đấy là việc học sinh tự đọc ở  nhà. Thay cho thời gian đọc tác phẩm, thầy tóm tắt cả cuốn sách, để học sinh nắm được nội dung, biết đoạn trích học nằm ở đâu. Thầy biến bài giảng thành buổi Xê-mi-na để học sinh cùng thảo luận. Có buổi học thành cuộc tranh luận rất sôi nổi. Thầy gợi mở, xới lên các vấn đề để học sinh bàn. Rồi thầy tổng kết. Có vấn đề thầy kết luận ngay, có vấn đề thầy bỏ ngỏ, để học sinh nghĩ tiếp.
Trong phần tổng kết, ngoài biểu dương những ý kiến có tính khám phá của học trò, thầy nói ba vấn đề. Một là thầy tóm tắt phần hướng dẫn giảng dạy dành cho giáo viên của Bộ Giáo dục về đoạn văn trích. Hai là thầy tóm tắt ý kiến của các nhà phê bình nghiên cứu về tác phẩm đã được in trên các báo và tạp chí từ trước đến nay, đặc biệt là những kiến giải xuất sắc có tính phát hiện. Phần thứ ba, là ý kiến riêng của thầy. Tôi thích phần thứ ba này nhất. Bởi đó là những ý kiến tôi không tìm thấy ở bất cứ tài liệu nào trên sách báo. Như vậy, một bài học, được chiếu rọi từ nhiều góc độ khác nhau. Một giờ lên lớp của thầy, bằng học sinh lục lọi hàng tháng trong thư viện với hàng đống sách vở.
Bây giờ, trong các thầy cô dạy phổ thông, có  ai làm được như thầy không?
Thầy nào trò  nấy. Thầy phải giỏi thì trò mới có thể giỏi được. Nhờ có một đội ngũ thầy giỏi như thế, mà trường có được một đội ngũ học sinh làm rạng danh trang sử nhà trường. Có người rất nổi tiếng, được thế giới biết đến, như nhà địa chất Tạ Phương, người được mang tên cho một loại quặng quý trong một cuốn sách khoa học về địa chất ở nước Nga. Rồi những tên tuổi được cả nước biết đến như anh hùng quân đội Vũ Ngọc Diệu, anh hùng Liệt sĩ Đỗ Chu Bỉ, Phó Giáo sư Tiến sĩ Trịnh Bá Đính, nhà báo Trịnh Bá Ninh, rồi các nhà quản lý Hoàng Bình, Nguyễn Thu Hằng, Nguyễn Thị Dung, các nhà kinh tế Vũ Văn An, Nguyễn Hữu Thắng…Và còn rất nhiều các anh các chị khác nữa.
Tôi muốn nói thêm đôi điều về hai học sinh của trường, anh hùng quân đội Vũ Ngọc Diệu và anh hùng Liệt sĩ Đỗ Chu Bỉ. Cả hai anh đều lên đường nhập ngũ khi còn đang học phổ thông. Trong trận “Điện Biên phủ trên không”, với 12 ngày đêm đánh B52 ở Hà Nội năm 1972, Vũ Ngọc Diệu là lính ra đa bảo vệ Hà Nội. B52 là vũ khí chiến lược của Mỹ, là sức mạnh tàn bạo của không lực Hoa kỳ. B52 có nhiều máy bay phản lực yểm trợ, bảo vệ, lại bay ở tầm cao, lại có hệ thống phá sóng ra đa, tung nhiễu mù mịt nên rất khó phát hiện. Kỳ tích của Vũ Ngọc Diệu cùng các cộng sự của anh là sự mày mò nghiên cứu, phát hiện chính xác B52. Sau nhiều lần tác nghiệp, anh nhận ra rằng, khi B52 cắt bom, và chỉ khi chúng cắt bom, trên màn huỳnh quang ra đa xuất hiện những điểm lóe bất ngờ giữa vô vàn những đốm sáng của những mục tiêu giả. Nhờ thế, chúng ta tiêu diệt được B52. Có ngày rụng đến cả chục chiếc.
Còn Đỗ Chu Bỉ cùng thế hệ tôi. Chúng tôi nhập ngũ khi còn học dang dở. Tổ Quốc gọi và chúng tôi ra đi. Con trai đi. Con gái cũng đi. Sau Tổng động viên, trường vắng hẳn. Phải nhiều lớp gom lại mới đủ sĩ số một lớp. Trong bài thơ gửi em gái mình, khi ở chiến trường Tây Nam, nghe tin em vào Đại học Sư phạm, tôi viết: Hôm nay em đến Giảng đường/ Anh hằng khao khát/ Thế  hệ anh, mấy lớp người đi cứu nước/ Có  bao anh chưa tới được lớp mười/ Có  bao anh nằm lại dọc đường rồi/ Những con suối không tên. Những ngọn đồi không tuổi/ Có  thể sau này, em dẫn học trò tới/ Chỉ thấy im lìm rừng xanh với núi xanh…/ Ước mong sao ngày đất nước yên lành/ Anh lại trở về, cùng em, vui chơi như thuở nhỏ/ Trên góc sân nhà, em là cô giáo nhé/ Anh làm chú học trò. Và bài học đầu tiên…
 Thật bất ngờ khi Đỗ Chu Bỉ cũng nghĩ như tôi nghĩ trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời mình về một thế hệ học trò chúng tôi. Anh là người lính dũng cảm, đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng bảo vệ từng tấc đất biên cương Phía Bắc Tổ Quốc. Hết đạn thì dùng dao găm và lưỡi lê. Một cuộc chiến đấu không cân sức. Mình anh đẩy lùi nhiều cuộc tấn công của địch.
Khi đồng đội tìm đến chi viện, anh đã hy sinh. Trên người anh là mười chín vết dao và vết đạn bắn. Trong túi áo ngực đẫm máu là bức thư anh viết dở cho mẹ: “Mẹ ơi, con không thể chết được đâu, dù kẻ thù tàn bạo đến thế nào. Bởi con còn có mẹ. Mẹ mỗi ngày một già yếu, ai sẽ chăm sóc mẹ nếu không phải là con?  Mẹ hãy tha tội cho thằng con trai bất hiếu này. Mẹ ơi, rồi con sẽ trở về nếu biên giới im tiếng súng. Con sẽ trở về cho tuổi già mẹ không còn hưu hắt. Rồi con sẽ tiếp tục trở về ngôi trường thân yêu của con. Con sẽ tiếp tục học để mẹ không phải xấu hổ vì có một thằng con thất học. Mẹ ơi, con sẽ về. Không kẻ thù nào giết nổi con đâu…”
Cũng như 217 liệt sĩ, những học sinh ưu tú nhất của trường, Đỗ Chu Bỉ không còn trở về. Anh đã nằm lại trên điểm chốt Bình Liêu. Nhưng các em của anh, những học sinh thế hệ sau anh đã quyên góp tổ chức tạc tượng anh, rồi đưa anh trở về ngôi trường thân yêu mà anh hằng khao khát được học tiếp. Bức tượng ấy hiện đang nằm trong Phòng Truyền thống của nhà trường.
Và như thế, có một Trường Cấp III - Trường Trung học Phổ thông Nam Sách bám trụ ở quê nhà, thành một địa chỉ văn hóa, một di tích lịch sử thiêng liêng với rất nhiều thế hệ. Lại còn có những trường cấp III – Trường Trung học Phổ thông Nam sách ở những miền xa. Đấy là các thế hệ học sinh của trường, trong suốt nửa thế kỷ qua, đã mang theo hình bóng thày cô, vóc dáng mái trường đến mọi miền Tổ Quốc, và làm nên những chiến công mới, những kỳ tích mới. Đó cũng là những vẻ đẹp của trường mà đâu phải ai cũng nhận ra…./.