Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

Vợ và thơ, mối tình thứ hai

(Tiếp theo kỳ trước)


130212bovo_e412cỞ Mông Dương được hơn một tháng mình được điều ra đảo Cái Bầu. Thằng Kiểm thỉnh thoảng vẫn gọi điện cho mình, chủ yếu khi nào viết được bài ưa ý nó lại lẻn vào tổng đài sư bộ đọc cho mình nghe. Đọc xong tất nhiên nó hỏi thế nào, hay chứ hả, tất nhiên mình nói ừ, hay. Hi hi, bố ai chê dở trước mặt nhà thơ bao giờ. Đôi khi mình có chê câu nọ câu kia, chữ nọ chữ kia  cho có vẻ khách quan, thế thôi, còn lại thì khen tất.


Chẳng phải do mình khen mà thằng Kiểm tưởng mình là thiên tài, đối với nó mình chỉ là ông nhà thơ nghiệp dư không đáng kể. Nó đã đọc thơ cho các nhà thơ nổi tiếng, các ông đều khen, không khen cũng gật gù, chẳng có ông nào chê. Có ông khen đểu, nói thơ chú mày thuộc về tương lai, sang thế kỉ 21 nhất định mọi người sẽ hiểu. Mặc kệ, thằng Kiểm đinh ninh nó sẽ là nhà thơ lớn, trời sinh ra để nó làm nhà thơ lớn, nhất định thế.


Một hôm nó gọi điện cho mình, vẫn cái giọng trịnh trọng nhà quê, nói buổi Tiếng thơ đêm nay Đài tiếng nói Việt Nam giới thiệu thơ Đình Kiểm đấy nhá, mày chú ý nghe đài, bút danh là Đi Ki, nhớ đấy. Mình hỏi sao mày biết. Nó bảo tao gửi cả tấn thơ lên đài không thấy đăng, sốt ruột quá mới gọi điện lên hỏi, người ta bảo tối nay có điểm thơ Đi Ki. Xuân Diệu điểm hẳn hoi nhé.


Mình khiếp quá, làm thơ mà được Xuân Diệu điểm thì còn gì bằng! Nhất thằng Đình Kiểm, phục nó quá. Đến chừng 8 giờ, mình chuẩn bị lên tiểu đoàn nghe nhờ đài thì thằng Kiểm mò tới. Mình trợn mắt há mồm, từ Mông Dương về đây hơn ba chục cây số, lại còn đi phà vượt biển, dò dẫm đường rừng… đi bộ cực bỏ bà, thằng Kiểm đến đây làm gì?


Thằng Kiểm mặt mày nghiêm trọng, nói lần đầu Đài tiếng nói Việt Nam giới thiệu thơ mình đâu phải chuyện chơi. Trong sư đoàn mày là thằng hiểu thơ tao nhất, không đến đây thì đến chỗ nào? Khiếp, chẳng ai như nó. Tối đó hai thằng căng thẳng nghe Tiếng thơ, đài ngâm hết bài này sang bài khác chẳng thấy thơ thằng Kiểm đâu. Té ra còn năm phút cuối người ta điểm thơ bạn đọc, chẳng phải do  Xuân Diệu điểm, bài điểm là của biên tập viên Quang Khải hay Quang Đại chi đó thôi.


 Đại khái tuần này bạn này bạn kia đã gửi thơ về cho chương trình, bạn này có câu thơ hay,tiếc rằng… bạn kia có khổ thơ ý vị, tiếc rằng… thằng Kiểm cũng được nhắc đến trong bài Cửa Ông của nó, nó hơn những người khác là đài dẫn ra cả khổ thơ để khen rồi mới tiếc rằng… hi hi.


Mình tưởng thẳng Kiểm thất vọng lắm, tính động viên nó mấy câu, không ngờ nó nắm chặt tay mình rưng rưng, nói vậy là đêm nay cái tên Đi Ki vang khắp đất nước. Nó ngước lên nhìn trời, hai mắt mở to long lanh, hai cánh mũi phập phồng, nói đúng là vang khắp đất nước Lập ạ, thật tuyệt vời. Thằng Kiểm xúc động thật sự, hình như nó đinh ninh cả nước đang nín thở ngồi nghe thơ nó.Hi hi.


Thằng Kiểm lặn lội về ngay trong đêm. Trưa hôm sau gọi điện cho mình giọng rất phấn chấn, nói nhiều người trong sư đoàn nghe đài đọc bút danh của tao, đặc biệt cô bồ tao nghe nhắc đến hai tiếng Đi Ki đã vật vã khóc cả đêm.


Mình ngạc nhiên cắt ngang lời nó, nói mày có bồ rồi à, hay là cô bồ cũ? Nó cười, nói quên báo cáo mày, cô bồ mới còn xinh hơn cô bồ cũ. Đặc biệt cô này cũng làm thơ, ngày nào cũng tặng tao một chùm tứ tuyệt. Mình hơi bị tò mò, muốn biết nàng thơ của thằng Kiểm ra sao, nhân có chuyến xe về sư đoàn mình xin đi theo ngay.


Té ra là cô chủ quán nước chè trước cổng sư đoàn. Gọi là quán nước chè chứ nó bán đủ loại, kẹo bánh, nem chả, mì tôm, rượu lạc… đủ cả. Cô bé trắng trẻo mũm mĩm, má bồ quân mắt lá răm, khi cười mắt kéo thành sợ chỉ, ngực nở giật giật má rung rung rất hấp dẫn. Thằng Kiểm kéo mình ra quán của nàng, cùng nàng uống rượu với lạc rang và thi nhau đọc thơ. Gì chứ rượu và thơ thì nàng chẳng thua kém thằng Kiểm, nó cạn ly nàng cũng cạn ly, nó đọc thơ nàng cũng đọc thơ, thứ thơ “nói vè” ứng khẩu lúc nào nàng cũng có sẵn, đại loại: anh ở trong sư em ngoài sư/ đêm đêm hai đứa vẫn tương tư/ bao giờ anh được đi ra quán/  ta lại bên nhau rượu và thơ.  Thơ như thế cô nàng hơn nghìn bài, chép đầy bốn cuốn sổ dày cộp.


Mình hỏi thằng Kiểm, nói mày mê nàng thật à. Nó khẽ gật đầu rất nghiêm trọng, nói ừ, không có nàng tao không sống nổi. Mình cười khì, nói sao đến nỗi thế. Thằng Kiểm vẫn mặt mày nghiêm trọng, nói chứ sao. Chưa ai thuộc thơ tao như nàng, chưa ai say đắm thơ tao như nàng, cũng chưa ai gọi tao là thi sĩ, thi sĩ nhé, không phải nhà thơ đâu. Mình cười chẳng biết nói sao, chỉ biết bắt tay nó, nói thôi thì chúc mày hạnh phúc. Nó siết tay mình, nói mày phải học tập tao đi, ráng kiếm được một nàng thơ như nàng thơ của tao đi, tuyệt cú mèo luôn, bảo đảm hạnh phúc trăm phần trăm, thật đấy.


Mình quay lại đảo Cái Bầu được một tuần thì nhận lệnh về quân chủng nhận tài liệu đổi mới khí tài, đi học chuyển loại khí tài mới rồi đi bắn đạn thật ở Trũ, hơn ba tháng sau mới về đơn vị. Về tới nơi đã thấy thư thằng Kiểm nằm chờ hơn ba tháng rồi. Tiểu đoàn trưởng nói thằng Kiểm ở sư bộ gọi mày liên tục, tao nói mày đi công tác rồi nó vẫn không tin, gọi suốt ngày.


Mình bóc thư thằng Kiểm ra xem:  Tao cần tiền để in tập thơ, bảo đảm tập này ra thì các nhà thơ đương đại nước ta sẽ chết như dán.Tao quyết định hoãn cưới vợ để dành tiền in tập thơ. Mày có tiền cho tao mượn 3-5 ngàn, nếu mày không có thì mượn ai đó giùm tao. Gấp đấy nhé.


Từ khi đi học rồi đi lính, tiền là một cái gì rất xa lạ với mình. Vài trăm đồng cũng chả có đừng nói vài nghìn đồng. Tuy vậy mình cứ gọi điện cho thằng Kiểm xem thế nào.  Thuở bé đến giờ mình mới nghe nói lấy tiền cưới vợ để in thơ. Thời này tiền cưới vợ là cái gì đó rất nghiêm trọng, thiêng liêng nữa. Nhiều anh vì không tiền cưới vợ mà phải chịu cảnh ế vợ. Thằng Kiểm cũng một lần thế rồi, nó còn lạ gì nữa. Chả hiểu thằng này nghĩ thế nào mà liều thế.


Suốt tuần không gọi được, chủ nhật mình lọ mọ về sư đoàn. Tới nơi mới biết thằng Kiểm đã được về trung đoàn bộ ở Hòn Gai. Cái quán nước chè của cô bồ nó cũng biến mất tiêu. Mình hỏi mấy ông cảnh vệ, họ bảo cô bé lấy chồng rồi, nhổ quán đi theo chồng. Mình thở phào nhẹ nhõm,nghĩ bụng thằng Kiểm đã cưới vợ rồi chứ không điên rồ lấy tiền cưới vợi in thơ nữa, thôi thì cũng may cho nó.


Tháng sau mình có lệnh về sư 375 Đà Nẵng, khoác ba lô bám ô tô về Hòn Gai, từ đây bắt ca nô về Hải Phòng rồi mới đi tàu hỏa về Hà Nội được, đi lại ngày xưa vất vả phức tạp thế đó. Đang ngồi uống nước chè dưới chân Núi Bài Thơ chợt thằng Kiểm lù lù xuất hiện, nó vỗ vai mình một cái cực mạnh, nói giời ơi ông đi đâu tới đây!


Anh em vào quán rượu nhỏ làm đôi chén rượu suông. Mình hỏi vợ ông đâu rồi? Nó bảo vợ nào. Mình nói thế không phải ông tính cưới cô bé thơ tứ tuyệt à. Nó khẽ gật đầu cười nhạt, nói ừ cũng tính thế nhưng bây giờ khác rồi. Mình hỏi khác thế nào. Nó kể cô bé đưa tiền cưới cho nó, cả thảy hơn chục nghìn chứ không ít, nói chừng này tiền cưới em có đủ không. Nó ôm cô bé suýt khóc, cảm động quá không biết nói sao.


 Vừa lúc thằng Kiểm gặp ông nhà thơ tỉnh, ông này tán thế nào mà nó dám bỏ cả đống tiền  cưới ra in chung tập thơ với ông đó. Cô bé cũng nhất trí lấy tiền cưới in ba ngàn cuốn thơ, cô còn tính nhanh như chớp, một cuốn lời 5 đồng, ba ngàn cuốn lời 15 ngàn, buôn trầm cũng lời đến thế thôi.


Mình hỏi thằng Kiểm, tập thơ đâu rồi? Nó thở dài, bảo tao tặng mãi cũng chỉ hết 500 cuốn, còn hai ngàn rưỡi cuốn bỏ xó nhà chẳng biết làm gì cả. Mình hỏi thế còn cô bé? Thằng Kiểm ngồi im không nói, mình hỏi đi hỏi lại nó mới thở hắt ra, nói lấy chồng rồi. Mình hỏi lấy ai, nó bảo lấy cái ông cho cô bé mượn tiền cưới tao. Tiền hết, không cưới được tao, bắn súng không lên phải đền đạn, tội nghiệp cô bé phải chấp nhận làm vợ lẻ ông chủ nợ.


Thằng Kiểm ngửa mặt nhìn trời, hai mắt mở to long lanh, hai cánh mũi phập phồng y như cái đêm nó nghe đài nhắc thơ nó. Thốt nhiên thằng Kiểm bật khóc, nó cứ ngồi thế khóc tu tu. Lát sau nó gạt nước mắt nốc cạn ly rượu,  nói tao cũng bỏ thơ rồi, từ nay ỉa vào thơ phú nữa.


Nguyễn Quang Lập

Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013

Vợ và thơ, mối tình thứ nhất

130212bovo_e412cHôm  8/3 mình ngồi gần bàn nhậu của đám chị em, họ làm đủ nghề, đông nhất là nhà giáo, ít nhất là nhà báo. Mình không quen họ, chỉ ngồi nghe lỏm thôi. Một cô hỏi phụ nữ dũng cảm nhất là ai? Người bảo đó là người không chịu lấy chồng, người bảo đó là người chịu làm vợ lẽ. Họ tranh cãi tùm lum. Một cô đứng dậy tuyên bố, nói tao thấy có hai loại phụ nữ cực kỳ dũng cảm, đó là phụ nữ lấy thương binh, hai là phụ nữ lấy nhà thơ. Họ lại ồ lên cãi nhau tùm lum.


 Mình ngồi tủm tỉm cười, cái cô vừa nói thật chí lí. Mình đã quen quá nhiều vợ các nhà thơ Việt, nếu có danh hiệu vợ Việt Nam anh hùng thì đảm bảo vợ các nhà thơ phải đứng đầu bảng. Đúng là để lấy các nhà thơ các cô chẳng những dũng cảm mà phải anh hùng, anh hùng thứ thiệt, thật đấy, hi hi. Tự nhiên mình chợt nhớ những mối tình thất thểu của anh bạn lính nhà thơ của mình hồi đóng quân ở Mông Dương (Quảng Ninh), đó là thằng Đình Kiểm.


 Đầu năm 1981 mình được quân chủng điều về Quảng Ninh học chuyển loại tên lửa. Tuần đầu về sư bộ được ăn chơi nhảy múa suốt ngày. Rỗi việc mình có làm bài thơ Nhớ về đỉnh gió đăng báo tường sư đoàn bộ. Thơ đăng hôm trước hôm sau có ông thiếu úy mặt non choẹt tìm mình, nói ông là Nguyễn Quang Lập à. Mình nhìn ông thiếu úy chỉ gật đầu không nói gì, bụng nghĩ mẹ thằng nào mà ra vẻ cha bố người ta thế này.


 Ông thiếu úy giới thiệu mình, nói tôi là Đình Kiểm, bút danh là ĐK hoặc Đi Ki hoặc Ka iểm, phụ trách báo tường sư bộ. Mình bắt tay nó, bụng nghĩ chú mày mới phụ trách báo tường sư bộ mà trịnh trọng như ông tổng biên tập báo Nhân dân, mẹ khỉ. Hình như thằng Kiểm cũng đoán được mình đang nghĩ gì nhưng nó không chấp. Nó bắt tay mình thật chặt, nói ở nơi sơn cùng thủy tận này kiếm được thằng biết làm thơ như ông thật quí lắm quí lắm. Thằng này nói năng thì tinh tướng nhưng cái nhìn và cái nắm tay thật ấm áp chân tình, cũng lạ.


 Sau quen thằng Kiểm rồi mới biết trịnh trọng là bản tính của nó, nó làm cứt gì cũng trịnh trọng, đi vào toilet cũng trịnh trọng luôn. Thật đấy, hi hi. Là cái vẻ ngoài vậy thôi chứ nó hiền lành nhu mì, trừ thơ phú ra chuyện gì nó cũng nhường nhịn người khác. Nó vốn là sinh viên sư phạm văn tốt nghiệp cùng năm với mình, đi bộ đội cùng tháng, phong quân hàm cùng ngày, cũng đăng được dăm ba bài thơ như mình. Có lẽ anh em thân nhau được vì mấy cái thứ cùng ấy.


Chỉ khác một chút, thơ phú mình chỉ làm khơi khơi vậy thôi chứ không mấy hứng thú, thằng Kiểm thì đắm đuối vì thơ, đối với nó trên đời này thơ là nhất, mọi thứ còn lại đều số hai trở đi. Nó thuộc thơ nhiều kinh hồn, bất kể thơ ca cổ kim đông tây nó đều thuộc, thơ Mai-a (Maiakovski) trục trà trục trặc, câu nào câu nấy dài cả cây số nó cũng thuộc lòng. Kinh.


 Thằng Kiểm đọc thơ thật hay, hôm nào sư bộ có liên hoan văn nghệ hôm đó nhất định có tiết mục đọc thơ của thằng Kiểm. Nó ôm cây đàn ghi ta, giọng nó vang và ấm, ngắt nghỉ cực chuẩn, cùng với ngón vẩy ghi ta thần sầu của nó, bài thơ bỗng hay kinh hồn, ai nghe cũng phải xuýt xoa tấm tắc. Mấy em ở sư bộ tất nhiên là mê tít thò lò . Các em đứng bíu lấy nhau mắt sáng long lanh ngước nhìn nó, miệng mồm chóp chép, chỉ đợi nó đọc xong bài thơ là đua nhau chạy lên tặng hoa cho nó. Có cô còn ôm đầu nó hôn đánh chụt giữa ba quân thiên hạ rồi vừa cười vừa ngoe nguẩy đít chạy. Rất vui.


 Tưởng là thằng Kiểm cua được nhiều em lắm, hóa ra không. Tối thứ bảy nào cũng thấy nó ngồi nhà ôm đàn đọc thơ, chẳng thấy đi đâu. Hỏi thì nó thở hắt cười hiền lành ngâm nga lẩy Kiều, nói trăm năm trong cõi người ta/ chữ thơ chữ vợ khéo là ghét nhau. Mình cười, nói thì cứ yêu đại đi đã, vợ con tính sau. Thằng Kiểm lại cười hiền lành, nói biết vậy nhưng yêu mà không cưới xin khác gì uống rượu nửa chén làm thơ được nửa bài, mà muốn cưới xin thì phải biết chắc cô vợ tương lai có chấp nhận yêu thơ như yêu mình hay không đã chứ, khổ thế đấy.


 Mình cười hì hì, nói khổ cái dzầy, tại ông tính xa quá . Nó hỏi tính thế nào thì không xa? Mình nói tôi nghĩ khác, cô nào yêu mình tất nhiên phải yêu luôn cái mình có. Mình chỉ có thơ thôi, yêu thì yêu chả yêu thì thôi. Thằng Kiểm vỗ đùi đánh bốp, nói đấy, tôi cũng nghĩ như ông đấy nhưng cuối cùng vẫn hỏng bét. Rồi thẳng Kiểm thủng thẳng kể, hi hi đúng là bi hài.


 Cô bé xinh nhất khu Mông Dương, một hôm vào sư bộ xem văn nghệ, thấy thằng Kiểm đọc thơ thích quá, chủ động tấn công nó ầm ầm. Thằng Kiểm đổ cái rầm. Đêm đầu tiên tình tự, thằng Kiểm ôm cô bé vào lòng, nói lính tráng nghèo, lính nhà thơ càng nghèo, em chịu nổi không? Cô bé thỏn thẻn nói em nhờ có thơ mới biết anh, có yêu thơ mới yêu anh… anh không cần phải nói nhiều. Thằng Kiểm sướng rêm, tuyên bố với cả Ban chính trị nó đã có người yêu lý tưởng. Nhiều người cười, nói mày xem lại có hoang đường không, thuở bé đến giờ tụi tao chưa thấy cô nào lấy chồng vì thơ cả. Thằng Kiểm vênh mặt lên, nói thời các bác khác, thời chúng em khác.. ..


 Yêu nhau đến kì mặn nồng tất nhiên phải nói chuyện cưới xin. Đám cưới lính tráng thường được đơn vị bao cho cả nhưng chí ít cũng phải có năm trăm đồng sắm nhẫn cưới và đồ sính lễ cho họ nhà gái. Năm trăm đồng đối với anh thiếu úy lương tháng sáu lăm đồng quả là con số khổng lồ. Thằng Kiểm nói thiệt với cô bé, nói anh đã nói với em rồi, anh chỉ có thơ thôi. Cô bé cười he he, nói thơ cũng là tiền chớ bộ. Em nghe mấy ông nhà báo nói một bài thơ mua được cả yến gạo. Thằng Kiệm nói trung bình mỗi bài hơn chục đồng, nếu in báo tết có thể lên đến trăm rưỡi, hai trăm đồng đó em.


 Cô bé nhảy lên vỗ tay, nói ui ui, chỉ cần một ngày anh làm một bài thơ, một năm có 365 bài, mỗi bài chỉ cần chục đồng, vậy là gần bốn ngàn đồng, một chỉ tám chục đồng, bốn, năm cây vàng đó anh ơi. Thằng Kiểm cười như mếu, nói được vậy chỉ cần vài năm thơ anh đã thành triệu phú, đâu khổ như bây giờ. Cô bé hỏi một ngày anh làm được một bài thơ không? Thằng Kiểm nói thừa sức, một ngày anh làm được cả chục bài. Cô bé lại nhảy lên vỗ tay, nói ui ui giàu thật rồi, hai đứa mình giàu thật rồi. Cưới xong rồi, anh khỏi phải làm gì hết chỉ ngồi làm thơ thôi. Không cần ngày chục bài, chỉ cần ngày một hai bài vợ chồng mình cũng đủ giàu, hi hi hi.


 Thằng Kiểm ngồi đực ra, mặt mày méo xẹo. Cô bé hỏi sao, nó nói làm thơ thì dễ in thơ thì khó em ạ. Cô bé hỏi mỗi năm anh in được mấy trăm bài thơ? Thằng Kiểm nói anh làm thơ hơn chục năm… cả chục năm nay anh gửi đi các báo cả ngàn bài…tóm lại người ta chỉ in cho anh được có bốn bài. Cô bé há hốc mồm không biết nói sao. Một tuần sau không thấy cô bé vãng lai. Nghe nói bố cô bé dắt đến nhà ông chú họ, người đói rách nhất khu Mông Dương, nói đây là nhà thơ số một xứ Mông Dương đó con. Cô bé suýt té xỉu, lát sau đứng ôm mặt khóc hu hu giữa nhà ông chú họ.


 Thằng Kiểm ráng hẹn gặp cô bé ba bốn lượt không được, không hiểu vì sao nó bèn viết thư trách. Một tối cô bé hẹn nó ra cổng. Thằng Kiểm vừa ra cô bé đã ôm chầm lấy thằng Kiểm khóc hu hu, nói em yêu anh nhưng em không dám yêu thơ nữa. Dứt lời cô bé hôn thằng Kiểm túi bụi, nói vĩnh biệt anh… vĩnh biệt anh… Và cô bé ù té chạy … hớt ha hớt hãi như chạy giặc.


 Thằng Kiểm đuổi theo chụp lấy cô bé ôm ghì lấy, nói thơ không có tội, chỉ tại anh bất tài… Nếu em yêu anh, nhất định anh sẽ cố gắng in thơ được nhiều hơn. Cô bé vừa khóc vừa cố đẩy thằng Kiểm ra, nói buông em ra… em chừa thơ rồi.. chừa thơ rồi…hu hu...


 Hi hi.


Nguyễn Quang Lập


Nhà chùa XHCN

8580_270047699797597_1322681094_n


Ảnh rút từ blog Mai Thanh Hải ( Tại đây)


 Theo blog JB Nguyễn Hữu Vinh ( tại đây):VTV cho thấy một vị béo tốt đeo kính, trắng trẻo, mang áo nhà sư, được chú thích là Thượng tọa Thích Thanh Dũng, trụ trì Chùa Phúc Nghiêm, Thuận Thành, Bắc Ninh lên truyền hình giảng giải về luật đất đai rằng "Đất đai phải là sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện quản lý. Tư nhân hóa đất đai là nuôi dưỡng lòng tham, và việc từ bi bác ái sẽ kém đi, đi ngược lại tinh thần từ bi của Đức Phật."


Cùng với phát ngôn hùng hồn của sư trụ trì chùa Phúc Nghiêm, thượng tọa Thích Thanh Dũng, cái biển báo này cho thấy các nhà chùa đang được XHCN hóa, một thắng lợi của Đảng ta.

Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

Thi sĩ Lưu Ly và thơ Hữu Thỉnh

image00141Năm 1996 mình ra Hà Nội, về làm báo Văn nghệ trẻ với bọn thằng Phong ( Nguyễn Thành Phong), thằng Thiều ( Nguyễn Quang Thiều). Cuối năm mình đi công tác Sơn La về, chị Thu ở phòng tài vụ nói mày có ông bạn ở quê ra đây tìm đấy, ông í vòng đi lượn lại mấy hôm rồi. Mình hỏi ai, chị Thu nói ông í giới thiệu ông í là thi sĩ Lưu Ly. Chị Thu cười rich rich, nói nhà thơ thì nói bố đi cho xong còn bày đặt thi sĩ thi séo.  Mình cũng cười, nói mấy ông nhà thơ vườn hay bày đặt vậy đó. Có ông đi Mỹ, giới thiệu mình là nhà thơ nổi tiếng thấy không an tâm mới xướng to mình là thi bá, chẳng may thằng phiên dịch nó chẳng biết thi bá là cái đinh gì, cứ đực như ngỗng ỉa. Hi hi.


Hôm sau mình đến cơ quan, chị Thu đưa mình cái thư, nói thi sĩ Lưu Ly gửi mày đó. Mình không mặn xem lắm.  Nếu bảo ông bạn cùng lớp cùng khóa gửi thư mình còn hào hứng, đằng này thi sĩ gửi thư, chưa đọc đã biết cái thư viết gì rồi. Thì cũng giống như bất kì thư của cộng tác viên lần đầu gửi thơ đến tòa soạn,  đầu thư khen ngợi tờ báo, giữa thư khen ông biên tập, cuối thư nhờ đăng bài, thư này  chắc cũng thế. Chắc là thư của ông cộng tác viên nào đó ở mấy tỉnh miền Trung mình có gặp quán nhậu nào đó, mấy ông này tiền không có một xu thơ lúc nào cũng đầy hai bị, hãi lắm.


Thôi, quan tâm làm gì, cho qua luôn. Mình tắc lưỡi bỏ ngay cái thư vào cặp. Chị Thu nói không mà, ông í bảo thân mày lắm, xưa ngồi học sát ngay chỗ mày. Mình cười, nói chị ơi, em có 15 năm đi học, khi nào em cũng bị sắp ngồi giữa bàn, 15 chỗ ngồi có ba chục đứa ngồi hai bên, biết là ông nào. Chị Thu cười to, nói ui ui quên quên, ông í bảo tao, nói cứ nhắc đến thằng Trọc là mày biết, mấy hôm búi việc chị quên mất. À, tưởng ai, té ra là thằng cu Trọc.


Chuyện cái thắt lưng thời con nít cho qua luôn, mấy chục năm rồi giờ nhận được thư nó thực sự mừng, mình vội vàng bóc thư đọc ngay. Thư chẳng có gì, vài dòng hỏi thăm sức khỏe, chủ yếu là lối tán tỉnh “ tôi đọc ông rất nhiều”, “ phục ông lắm”… mình nghe đã quen tai. Cuối thư tất nhiên nó gửi cho mình bài thơ Bữa cơm chiều 30/4 có chua thêm mấy câu “ Bài thơ tâm huyết nhất của mình viết sau ngày 30/4 tại Dinh Độc lập”. Cộng tác viên gửi thơ cả tấn mình chả bao giờ đọc vì không phải việc của mình, nhận được là mình bắn thẳng cho thằng Phong, thằng Thiều. Nhưng thơ thằng Trọc thì mình đọc, đọc xem bạn bè viết lách thế nào.


 Tưởng phải ngáp vài ngáp mới đọc xong bài thơ, té ra bài thơ thấy hay, đọc một lèo rất hào hứng- Màu xanh – sân cỏ xanh mải miết/ Quây quần đồng đội đến vui chung/ Hàng cây so đũa cùng ta đó/ Ăn bữa cơm ở đích cuối cùng…Mình nghĩ bụng không ngờ thằng cu Trọc lại làm được bài hay thế, chộp được khoảnh khắc  bữa cơm chiều 30/4/1975 tại Dinh Độc Lập thật không phải tay vừa.


Mình lên tòa soạn đưa bài thơ cho thằng Phong, nói thơ thằng bạn học tôi đấy, không ngờ thằng này viết được phết. Nhác thấy bài thơ thằng Phong  cười phì, nói thơ bạn ông à? Mình ừ, bạn học thời con nít, in được thì in cho nó. Thằng Phong cố nín cười đưa cho thằng Thiều, nói thơ bạn ông Lập hay phết ông ạ, quyết đi số này ông nha. Thằng Thiều cầm bài thơ cười ha ha, nói quyết quyết. Mình thấy hơi lạ, thái độ hai thằng có cái gì đó nghi nghi nhất là thái độ thằng Phong, có vẻ như là nó đang diễn kịch.


Thằng Phong chua dưới bài thơ: “Kính gửi anh HT. Đây là bài thơ của bạn anh NQL. Tụi em thấy rất hay, mong anh duyệt cho để kịp đăng số này.” Xong, thằng Phong đưa bài thơ cho mình, nói ông chịu khó đưa lên Hữu Thỉnh giùm tôi. Số này đã nộp cả lên anh Thỉnh rồi. Mình đọc lời trình của thằng Phong thấy hơi lạ lại càng nghi. Xưa nay chưa bao giờ nó ghi trong tờ trình bài này bài kia là của bạn của ông này ông nọ kia, rồi thì “ tụi em thấy hay”, “ mong anh duyệt cho”…thứ ngôn ngữ lạ hoắc không có ở tờ Văn nghệ trẻ thời của tụi mình.


 Mình cầm bài thơ ra khỏi phòng được vài bước bỗng nghe hai thằng cười khoái chí. Mình khựng lại, chẳng hiểu trời xui thế nào mình bỗng nhớ ra đây là bài thơ Bữa cơm chiều trong dinh Độc Lập của Hữu Thỉnh. May thế không biết. Cái ông Hữu Thỉnh là chúa đa nghi, việc mình đưa bài thơ của ổng trình ổng kí rất có thể là một trận lôi đình sau đó, dù khi đó ông vẫn nói cười rổn rảng, vẫn tốt tốt tốt như thường.


Mình nhảy vào phòng chửi thằng Thiều thằng Phong một chặp, bạn bè với nhau lại bày kế ác, suýt nữa nát một đời công chức. Hai thằng khoái chí ôm bụng cười rú lên,  thi nhau chửi mình ngu. Trong cái chuồng báo Văn nghệ này, thơ Nguyễn Du, Hồ xuân Hương, Cao Bá Quát … có thể không biết nhưng thơ Hữu Thỉnh mà không biết  thì thật quá to gan. Hi hi.


Mình kể chuyện thằng Trọc cho thằng Phong thằng Thiều nghe, nói chẳng biết thằng Trọc đạo văn hay nó bày trò đểu chơi mình. Chúng nó cười, nói chắc là đạo văn thôi, chứ nó có biết ông Hữu Thỉnh méo hay tròn mà chơi đểu ông. Vừa lúc chị Thu gọi điên lên ban Văn nghệ trẻ, nói thằng Lập xuống nhà có khách. Mình hỏi ai đấy. Chị cười, nói mày tưởng mày lắm khách lắm à. Còn ai vào đấy nữa, thi sĩ Lưu Ly! Mẹ khỉ, thằng này thiêng thật.


 Thằng Trọc, à quên, tên nó là Đình siết chặt tay nhìn mình âu yếm, nói ông gầy đi nhiều quá. Suýt nữa mình bật cười, từ thuở “cái thắt lưng” đến giờ nó có gặp mình đâu mà biết béo hay gầy. Hết lớp ba nhà nó đi kinh tế mới, hay đi đâu đó mình không biết, nói thật mình cũng không mấy quan tâm. Giờ gặp nó đây, kể như hơn ba chục năm rồi. Mình cũng diễn, vì nó diễn nên mình cũng chẳng dám thật thà, nói cảm ơn ông. Tôi nhận được thư ông, bạn bè ba bốn chục năm hảy còn nhớ nhau, quí hóa quá.


Nó đưa mình cái carvidit, khoe cái chức phó tổng giám đốc, nói thằng tổng bị ung thư giai đoạn cuối sắp chết rồi, chắc cuối năm nay tôi thay hắn. Rồi nó lôi mình ra quán, ở đấy có mấy thằng lính của nó đang ngồi chờ, xem chừng tụi nó kính cẩn  sợ hãi thằng này lắm. Được một tuần rượu thằng Đình vỗ vai mình, nói ông thấy thơ tôi được không. Mình trợn mắt hỏi thơ nào? Nó bảo thì bài Bữa cơm chiều 30/4 tôi gửi cho ông đấy. Có mấy thằng lính của nó mình không dám nói thật, chỉ ngồi cười trừ. Nhưng nó cứ ép mình, nói bạn bè với nhau ông cứ nói thật đi. Tụi này là đệ tử của tôi, không có ai đâu mà ngại.


Mình vẫn diễn, nhìn thằng Đình vẻ chân thành hết mực, nói bài thơ ông gửi tôi hình như ông chép lộn thơ Hữu Thỉnh. Mình thoáng thấy đám đệ tử thằng Đình cụp mắt xuống rất nhanh. Thằng Đình mở to mắt nhìn mình vẻ ngạc nhiên hết cỡ, nói Hữu Thỉnh là thằng nào? Mình nói ổng là sếp tôi, bài đó có tên Bữa cơm chiều trong dinh độc lập, đăng đi đăng lại nhiều lần rồi, ai cũng biết. Thằng Đình vẫn mở to mắt nhìn mình, nói a thế à, không có lẽ có sự trùng hợp ngẫu nhiên đến thế. Mình nói ừ,  chuyện đó xảy ra cũng nhiều. Đôi khi mình thích thơ ai đó, thuộc lòng đến nhập tâm, lâu ngày đinh ninh là thơ của mình. Thằng Đình vỗ đùi đánh bốp,. nói đúng đúng đúng… có thể thằng Thỉnh sếp mày rơi vào trường hợp này đấy.


Mình suýt cười nhưng nín được, nói ông Thỉnh sinh năm bốn hai, hơn anh  em mình một giáp, ông không nên gọi bằng thằng, khó nghe. Nó cười cười xoa đầu mình, nói mày cũng biết thờ chủ đấy nhể. Rồi nó hất mặt lên với đám đệ tử, nói chúng mày phải học ông này, bất luận trường hợp nào cũng đứng về phía chủ. Mấy đứa đệ tử thằng Đình đứa dạ đứa vâng đứa gật gù, có đứa còn chồm tới bắt tay mình ra cái điều kính nể khâm phục lắm.


Mình hơi bị nóng mặt, cảm giác như bị làm nhục bèn tính bài chuồn. Ngồi với thứ bạn bè như thằng Đình chỉ tổ mất thời gian, thêm bực mình chứ chẳng được cái gì. Thằng Đình biết ý, nó kéo mình ngồi dí xuống, nói bạn bè mấy chục năm mới gặp nhau, gì mà ông nhấp nhổm thế. Mình vẫn đứng lên, nói thôi để khi khác. Nó bảo khi khác là khi nào. Mình cười, nửa đùa nửa thật, nói khi ông phân biệt được thơ ông với thơ Hữu Thỉnh.


 Thằng Đình không hề đổi sắc mặt, nó vỗ vai mình cười rất tươi, nói  thì cũng giống như ông đã không  phân biệt thắt lưng của ông với thắt lưng của tôi thôi, cuộc đời mà… cuộc đời mà.  Mình chưa kịp phản ứng ra sao Thằng Đình đã ngửa cổ cười ha ha ha, tiếng cười đắc chí nghe rợn tóc gáy cho đến bây giờ.


 NQL

P/S: Kính báo: Sau đây bọ Lập đi nhởi hai tuần. Mục tin tức Quê Choa hàng ngày tạm dừng. Bài vở thường lệ chỉ post khi có điều kiện, không thể post thường xuyên được, rất mong bà con thông cảm.

Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

Loạt ảnh phơi bày sự thật về tượng Phật "sắc dục"

Thông báo khẩn: Trang Ba Sàm bị tin tặc phá.


Hồi 9h20′ sáng nay, 8/3/2013, tin tặc đã đánh phá trang Ba Sàm, độc giả không thể truy cập được. Chúng tôi đang cố gắng khắc phục. Mong độc giả thông cảm. Kính nhờ các blogger và độc giả loan báo dùm. Xin cám ơn.

Dưới đây là bản tin hôm nay được đưa tạm sang  trang VIỆT SỬ KÝ ( tại đây!)



Sự thật đã rõ ràng: Bức tượng Phật khiến nhiều người Việt Nam “đỏ mặt” có nguồn gốc từ… dãy núi Himalaya. Hình ảnh cô gái khỏa thân trong bức tượng Phật “nhạy cảm” đã gây nên những cuộc tranh cãi nảy lửa trong cộng đồng mạng VN. Nghi vấn về nhân vật này đã có câu trả lời.

“Cô gái” đó chính là Shakti – tên tiếng Phạn của một lực lượng siêu nhiên đại diện cho năng lượng vũ trụ sơ khai, khởi nguồn của sáng tạo, sự sinh sản và mang bản chất nữ tính.


Shakti có nguồn gốc từ Ấn Độ giáo, đôi khi còn được hiểu như “Mẹ thiên chúa vĩ đại” trong thế giới quan của Ấn Độ giáo.


Thuật ngữ Shakti được du nhập vào Phật giáo Mật Tông sau khi tông phái này ra đời.


Nepal và Tây Tạng, những vùng đất nằm trên dãy Himalaya là nơi Mật Tông phổ biến nhất. Tại đây, hình tượng Shakti ôm Phật được gọi là Hoan Lạc Phật.


Trong Ấn Độ giáo cũng có một hình ảnh tương tự Hoan Lạc Phật, đó là thần Shiva - tượng trưng cho sự hủy diệt - kết hợp với Shakti - sự sáng tạo (như trong ảnh).


Khi được đưa vào Phật giáo, Shakti không còn mang ý nghĩa nguyên bản là sự sáng tạo và sinh sản. Thay vào đó, Shakti trở thành biểu tượng của trí tuệ.


Sự “âu yếm”, “ôm ấp” giữa Đức Phật và Shakti chính là sự kết hợp viên mãn giữa thể xác và trí tuệ, trong đó thể xác tìm kiếm sự giải thoát thông qua trí tuệ.


Sự “hoan lạc” trong Hoan Lạc Phật là sự hoan lạc của một con người đã khai mở trí tuệ chứ không phải sự hoan lạc dục tính giữa nam và nữ.


Có thể ví von, nếu thành tựu cao nhất trong mối quan hệ nam nữ phàm tục là “lên đỉnh”, thì thành tựu của mối quan hệ giữa Đức Phật và Shakti chính là cõi Niết Bàn.


Bên cạnh cách giải thích như trên, còn có nhiều quan niệm khác về ý nghĩa của hình tượng Hoan Lạc Phật.


Một quan điểm cho rằng người phụ nữ không mảnh vải che thân với những động tác gợi tình tượng trưng cho sự quyến rũ trần tục.


Trong khi đó sự bình thản của Đức Phật là minh chứng cho cái tâm đã được giải thoát khỏi bụi trần.


Chính sự giải thoát này là niềm hoan lạc vĩ đại nhất mà một con người có thể đạt được trong kiếp sống của mình.


Một thuyết khác coi người phụ nữ khỏa thân là tượng trưng cho tín đồ dị giáo. Thái độ của người phụ nữ này chính là biểu hiện sự hàng phục giáo lý nhà Phật.


Trở lại với bức tượng “gái khỏa thân ôm Phật” làm xôn xao dân mạng Việt Nam. Dù không thể xác định bức ảnh được chụp ở đâu, nhưng chắc chắn những bức tượng như vậy có thể được tìm thấy dễ dàng tại Tây Tạng, Nepal và một số vùng khác ở Nam Á, nơi có Phật giáo Mật Tông.


Việc dư luận Việt Nam đưa ra những suy diễn “không lành mạnh” về bức tượng Hoan Lạc Phật mà không tìm hiểu về ý nghĩa cao quý của bức tượng này thực sự là một điều đáng tiếc.

Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013

Thằng cu Trọc và cái thắt lưng

image00141Ngày mình từ Ba Đồn sơ tán lên làng Đông, vào học lớp 3 mình ngồi cùng bàn với thằng Trọc. Tên nó là Đình, con trai cả lớp đứa nào cũng cạo trọc đầu riêng nó có tên là Trọc, kể cũng hơi lạ. Mình vừa ngồi xuống nhét cặp vào hộc bàn, nó liền lôi cái cặp của mình ra, nói có chi không? Mình giật cái cặp lại, nói có chi mô! Nó cười hiền lành, nói tưởng có chi ăn được.


 Ngồi gần thằng Trọc lâu ngày mình phát hiện ra thằng này có cái tật lạ nữa, nếu nó chăm chú nhìn lên bảng chừng nửa tiếng thế nào nó cũng ngủ gật. Thành ra suốt buổi học nó toàn cúi gầm mặt nhìn vào sách. Tai nghe cô giáo giảng, mắt theo dõi sách giáo khoa chỉ thỉnh thoảng nó mới ngước lên bảng. Lúc đầu cô giáo buộc nó phải nhìn lên bảng, sau thấy hễ nó nhìn lên bảng là nó ngủ gật nên cô cũng không ép nó nữa, mặc nó muốn làm gì thì làm.


Thằng Trọc học với cái hộc bàn, nó chúi mũi trong hộc bàn suốt buổi, lục soát cặp của mấy đứa cùng bàn xem có gì ăn không, gạ gẫm hết đứa này đến đứa kia chơi cờ ô rô với nó, không có đứa nào chơi thì nó chơi ô rô một mình. Cứ thế nó lúi húi duới hộc bàn cho đến khi tan học.


Gần tết anh Mỹ mình đi học Liên Xô về cho mình nhiều thứ, thích nhất là cái thắt lưng nhỏ. Cái thắt lưng nhựa mềm mại trắng tinh, viền bằng hai đường màu hồng phớt, rất vừa bụng. Sau này ra Hà Nội thấy người ta bán đầy loại thắt lưng nhựa này, có đồng mốt một chiếc, rất rẻ. Nhưng khi đó nghe  nói thắt lưng Liên Xô mình sướng rêm, mũi phồng to để lọt hai quả cà. Bảo đảm cả huyện này không có đứa nào có thắt lưng Liên Xô như mình.


 Quê mình thắt lưng gọi là nịt. Chỉ khi đi học mới được mặc quần dài, chỉ khi mặc quần dài mới thắt lưng bằng cái nịt Liên Xô. Hôm nào cũng vậy, mình chỉ mong sáng để mặc quần đeo nịt. Rất muốn bỏ áo vào quần để khoe cái nịt nhưng sợ chúng nó trêu đĩ trai, con nít giả đò làm người lớn, thành thử cứ phải buông áo ngoài quần. Ngồi trong lớp lâu lâu mình lại cúi xuống vén áo ngắm cái nịt. Thằng  Trọc phát hiện ra cái thắt lưng, nó trợn mắt há mồm nói oa chà oách rứa bay.


Suốt buổi nó cứ cúi gầm mặt vén áo mình lên xem cái thắt lưng, lâu lâu lại ngẩng lên hỏi, nói nói ai cho mi ri? Mình vênh mặt nói anh tao, anh tao học trường Lô mô nô xốp tề, ở Liên Xô tề. Thằng Trọc chẳng quan tâm Liên Xô ở đâu, Lô mô nô xốp là cái gì, suốt buổi nó chỉ chúi mũi vào cái thắt lưng của mình. Nó nhìn cái thắt lưng với vẻ thèm khát bốc cháy, nước dãi chảy ra ướt cả cổ áo. Lâu lâu nó lại hỏi ai cho mi ri nhưng hỏi chỉ để mà hỏi, nó không cần có câu trả lời.


Cuối buổi học nó nhìn mình van xin, nói cho tao đeo thử cái coi. Nó năn nỉ nhiều lần, mình động lòng tháo ra đưa cho nó đeo thử, nói tan học trả lại cho tao nghe chưa. Nó nói ừ, tất nhiên rồi. Tan học ngoảnh lai không thấy thằng Trọc đâu. Mình vọt ra sân thấy nó đã chạy trên đường làng. Mình ráng sức đuổi theo vừa chạy vừa gọi, nói vơ Trọc nời, trả cái nịt cho tao. Nó ngoảnh lại nhìn mình tươi cười, nói  rồi rồi, mai tao đưa cho. Nói xong nó vọt rất nhanh về ngõ nhà nó.


Mình nghĩ mai đòi lại cũng được, bèn quay lui về nhà mình. Sáng mai gặp thằng  Trọc ở sân trường, mình nói cái nịt của tao mô rồi? Nó vén áo lên chỉ cái thắt lưng, nói đây nì, mi sợ tao giấu mất à? Mình nói tháo ra trả cho tao. Nó cười tươi, nói chi mà nôn rứa hè, tí tao trả cho. Vào buổi học, cứ lúc lúc mình lại cấu nó, nói trả cái nịt cho tao. Nó nhăn mặt nhìn mình, nói thằng ni chi lạ rứa hè, đang học làm chi ồn ào mất trật tự. Sợ cô mắng mình cũng thôi không đòi nữa. Tan học nó lại biến đâu mất tiêu. Mình vọt ra sân nó đã chạy trên đường làng.


Lần này không nhân nhượng nữa, mình rủ thằng Diệp đuổi theo thằng cu Trọc về tận nhà nó. Thằng Diệp rất nhiệt tình, nó bỏ cả buổi thả trâu cùng đi với mình về nhà thằng Trọc. Thằng Trọc không trốn đi đâu, cứ ngồi ăn thản nhiên mặc kệ mình và thằng Diệp chạy vòng quanh mâm đòi nó cái nịt, nói đưa cái nịt cho tao… đưa cái nịt cho tao. Thật lạ, thằng Trọc như điếc cắm cúi ăn như là không nghe ai nói gì, nó cũng như thằng mù như là chẳng thấy mình với thằng Diệp đang vè vè quanh nó. Lạ quá lạ quá!


 Lạ nhất là bọ thằng Trọc, ông cũng như mù như điếc, cứ thản nhiên ăn cơm, mặc kệ mình với thằng Diệp đang xấn xổ bên con ông. Nếu ông trừng mắt lên, nói chuyện chi thì tụi mình sẽ kể đầu đuôi cho ông nghe, đằng này không, ông nhìn hai thằng mình như nhìn hai con ruồi vậy.  Ông ăn xong phủi đít quần vào buồng ngủ. Thằng trọc cũng phủi đít quần vào buồng ngủ với ông. Mình và thằng Diệp đứng trơ giữa nhà, hai thằng hò hét một lúc mỏi mồm rồi lủi thủi bỏ về.


Mình bàn với thằng Diệp, nói để mai tao lên báo cáo thầy hiệu trưởng. Thằng Diệp cười nhạt, nói è he, không ăn thua chi mô, để hắn đó tao trị cho.  Rồi thằng Diệp rủ mình  phục ngay cổng trường, đè cổ thằng Trọc ra lấy cái thắt lưng. Thằng Trọc chống cự rất dữ chửi cũng rất dữ, cứ như tụi mình ăn cướp cái thắt lưng của nó không bằng. Khi cái thắt lưng được tháo ra thằng Trọc khóc rú lên chạy ù vào phòng giám hiệu khóc lóc tùm lum với thầy Khuông.


 May thầy Khuông không phải con nít, mười phút sau thầy đã làm cho cu Trọc đuối lý, nó thừa nhận cái thắt lưng của mình, nó chỉ mượn đeo chơi thôi.  Vui nhất là nó nói bạn Lập hứa cho em mượn một tháng, chưa được một ngày đã đòi lại. Mình với thằng Diệp tức nhưng chẳng biết nói sao, chỉ nhao nhao lên, nói ê ê nói láo… nói láo!


 Thằng Trọc ra khỏi phòng giám hiệu mặt vác lên trời, nó nhìn mình cười cười, nói tao cho mi mượn tạm cái nịt đó nha, mai mốt tao đòi lại. Mình trương gân cổ lên, nói đòi cu tao… nịt tao chứ nịt mi à. Nó cười nói như không, nói nịt tao chớ, thầy hiệu trưởng nói rồi. Sôi máu lên mình lao vào tính sống mái với nó. Thằng Diệp ngăn lại, nói mi để thằng Trọc tao trị cho, không cần nghe nó nói thối tai.


Vừa vào lớp, tụi nó xúm lại hỏi răng rứa răng rứa. Mình không buồn kể ngồi yên. Thằng Trọc cười tươi, nói có chi mô, thằng Lập đòi mua cái nịt của tao, tao không bán, nó rủ thằng Diệp đập tao. Thầy hiệu trưởng xử huề, bảo tao cho nó mượn một tháng. Mình lại điên lên xông vào cấu chí nó, nói cha tổ mi đồ nói láo. Thằng Trọc  vẫn bình tĩnh ngồi yên cười rất tươi, như là chân lý thuộc về nó rồi không phải bàn cãi. Tức thế chứ.


Thuở bé đến giờ mình mới hiểu thế nào là sự trơ. Chẳng ngờ nửa thế kỉ sau lại gặp lại cái sự trơ ấy, vẫn là thằng cu Trọc không ai khác, chuyện này kể sau.


Kỳ sau: Thi sĩ Lưu Ly và thơ Hữu Thỉnh


NQL

Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013

Hướng dẫn dư luận viên trả lời Kiến nghị 72

question[1]Mình không biết Kami là ai nhưng mình thích đọc ông này. Cái ông Kami này bàn những chuyện quốc gia đại sự thường là hay, hễ bàn cái gì đó cụ thể, riêng tư thường là hỏng.  Bài Vì sao TBT Nguyễn Phú Trọng phải lên tiếng răn đe trong việc sửa Hiến pháp (tại đây) của Kami rất hay. Mình không dám đăng vì phần cuối hơi căng, đăng rồi sợ người ta chụp cho cái mũ hô hào lật đổ thì cũng bỏ mẹ.


Mình rất nhất trí với Kami khi ông nhận định về lực lượng dư luận viên  đang ra sức bảo vệ Đảng: "Những lập luận ngây ngô trong các bài viết khiến cho người đọc (xem) phát ngượng, với cảm giác vừa bực mình, vừa buồn cười và cộng thêm chút thương hại đối với các tác giả....".... "Nếu nói như ai đó nói "Đảng không có quyền lực và lợi ích nào khác ngoài quyền lực và lợi ích của nhân dân" thì xin hỏi tại sao đảng lại muốn quân đội trung thành với đảng trước, rồi mới đến tổ quốc và nhân dân?"


Bảo vệ Đảng như rứa càng làm mất uy tín Đảng, càng làm cho người ta thấy Đảng đang đuối lý và quanh co. Do vậy, mình cũng nhất trí luôn với Kami, câu trả lời dứt khoát thẳng thắn, thiết thực nhất hiện nay là:"Giữ chùa, thờ Phật thì được ăn oản". Chẳng có câu trả lời nào hay hơn thế.


Vì sao không tam quyền phân lập?- Vì  giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!


Vì sao đất đai phải  sở hữu toàn dân?- Vì giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!


Vì sao quân đội phải trung thành với Đảng?- Vì giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!


Vì sao không được bỏ điều 4?- Vì giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!


Cả 7 kiến nghị trong kiến nghị 72 đều được trả lời đúng một câu: Vì giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!


Rứa thôi!


Cả những câu hỏi cụ thể như vì sao Bản Giốc, Vì sao Hoàng Sa, Vì sao Bauxite, Vì Sao Vinashin, Vì sao Vinalines...vân vân và vân.. thì các dư luận viên vẫn cứ kiên quyết trả lời đanh thép: Vì giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!


Cứ trả lời như thế nhất định bọn suy thoái sẽ phải câm miệng.

Rứa đo rứa đo!

NQL

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

Tướng Hưởng về hưu, có chi mà ồn ào?

214640_tMỗi chuyện ông Hưởng về hưu mà râm ran cả ngày thứ bảy, báo lề dân lẫn báo lề đảng đều hớn hở đưa tin. Quê choa mấy lần định đưa tin nhưng lại thôi, nghĩ đi nghĩ lại đưa cái tin này nó dở hơi, buồn cười thế nào a.


Không đưa tin nhưng mình cố soi xem người ta bình luận về vụ này thế nào. Rất ít bình luận, thẳng hoặc có đá qua vài câu chứ chẳng bình luận gì. Có lẽ Anh Ba Sàm bình luận dài nhất, thú vị nhất.


Anh Ba Sàm bình luận như vầy: "Không biết đây có phải là lần đầu tiên, một quyết định về hưu được chụp lại, đưa lên cả mặt báo? Tại sao đặc biệt vậy ta? Bổ sung lúc 12h05′:  Blogger Đồng Phụng Việt bình luận trên FB: Chưa bao giờ thấy vụ này: Đưa tin một cá nhân nghỉ hưu mà lại lấy quyết định cho đương sự nghỉ hưu làm… ảnh minh họa. Quyết định cho nghỉ hưu là loại văn bản chỉ phổ biến trong phạm vi tổ chức – hành chính, đâu dễ kiếm để làm ảnh minh họa như vậy! Thử ngẫm nghĩ thì thấy hai khả năng:


(1) Đương sự là kẻ được nhiều người yêu thương, kính trọng nên chuyện đương sự nghỉ hưu khiến nhiều người ngậm ngùi, tiếc nuối. (2) Ngược lại, đương sự bị nhiều người khinh bỉ, thù ghét và chuyện đương sự nghỉ hưu làm nhiều người hởi lòng, hởi dạ thành ra người ta chọn cách trình bày thông tin giống như… báo hỉ! Một viên tướng như Nguyễn Văn Hưởng thì không thể có khả năng (1).


Ngoài khả năng (2) thì do viên tướng này là cật ruột của Thủ tướng, mà Thủ tướng cũng là nhân vật bị nhiều người khinh bỉ, thù ghét nên có thêm khả năng thứ (3): Thủ tướng gián tiếp phân bua với thiên hạ – qua không xài “nó” nữa, ai vì thù nó mà ghét qua thì bỏ qua cho qua. Qua cám ơn! Dù khả năng (2) hay khả năng (3) thì cũng thấy tội thiệt! Xem tin này, không biết mấy ông đang nhảy múa như ông Hưởng hồi xưa có ngẫm ra được gì không?"


Công nhận Anh Ba Sàm to gan, mình chẳng dám nói như rứa, nhưng mà mình cũng nghĩ như rứa, hi hi.


Dân luận dẫn tin BBC nhưng lại ném ra cái sapo hơi bị hay: Theo ông Lê Thăng Long, tướng Hưởng đã từng vào gặp trực tiếp ông tại nhà giam B34, và khi đó ông Hưởng có nói đại ý là: chừng nào tôi chưa về hưu thì chưa thể có chuyện thay đổi (thể chế chính trị) gì hết. Mà hôm qua ông đã về hưu...


Cái này thì Dân luận hơi bị lạc quan cách mạng quá. Ông Hưởng tinh tướng vậy thôi chứ ổng cũng chỉ hạng con sâu cái kiến của Đảng, giống thằng Javert trong Những người khốn khổ của Victor Hugo, giỏi lắm chỉ đàn áp, bắt bớ được mấy  bloggers chứ làm được cái dzầy! Phàm  ghét ai thì người ta muốn kẻ đó biến nhanh cho khuất mắt thôi, hy vọng kẻ đó đi rồi sẽ có gì đó đổi thay chỉ là hy vọng hão.


Mình không quen ông Hưởng và nói chung cũng không mấy quan tâm đến ông này, ngay cả khi nghe tin giật gân ổng là bồ cô Hồng Beo mình cũng không quan tâm. Một lần mình hỏi ông bạn nhà báo rất thân quen ông Hưởng, nói ông Hưởng là người thế nào? Ông nhà báo này ngẫm nghĩ hồi lâu, nói hồi mới gặp mình gọi bằng ông, quen rồi mình gọi bằng anh, bây giờ thì ngay cả khi trước mặt hắn mình cũng gọi bằng thằng.


 Đó là lý do dân chúng có chút hả hê khi Thủ tướng cho ông Hưởng  go out, có  lẽ thế chăng?

Thứ Sáu, 1 tháng 3, 2013

Bí mật của ông Vũ Đức Đam?

130129152704_1_304x171_bbc_nocreditTất nhiên chẳng ai cho mình đi dự cuộc họp báo thường kì của Văn phòng chính phủ cả. Mình chỉ ngồi nhà hóng hớt tin báo chí thôi. Một trong những tờ báo đưa tin đáng tin là báo SGTT, tờ này giật cái tít rất chi là lạc quan cách mạng: Dự án bôxít: phải có lợi mới làm!(Tại đây) Mới đọc cái tít thấy sướng cái lỗ rốn, đi vào bài   "Ông Vũ Đức Đam cho rằng một số dự án xét thấy phải đầu tư dù hiệu quả kinh tế thuần tuý thì chưa hiệu quả nhưng tổng hoà (cả lợi ích kinh tế – xã hội) phải có lợi mới làm."


Hi hi khéo đến thế là cùng, khéo như quan chức Bộ ngoại giao, ông này nên cho làm bộ ngoại giao, làm Văn phòng chính phủ vừa phí vừa khổ ổng.


Đọc đi đọc lại hai ba lần vẫn không hiểu cái lợi ích tổng hòa của Bauxite Tây Nguyên nó nằm chỗ nào? Về kinh tế thì lỗ chổng vó rồi khỏi nói làm gì, còn lợi ích tổng hòa nó là cái gì mà nghĩ mãi không ra. Từ năm 2010, trong kiến nghị của 2746 nhân sĩ trí thức Việt đã chỉ ra 4 mối nguy khi làm Bauxite Tây Nguyên: kinh tế nhất định thua lỗ,  môi trường nhất định ô nhiễm,  quốc phòng nhất định nguy hiểm, văn hóa Tây Nguyên nhất định bị tiêu vong. Cho đến nay chưa có ai chứng minh có thuyết phục bốn mối hiểm nguy ấy là không thể xảy ra, hoặc có xảy ra nhưng không ở mức nguy hiểm. Chắc chắn ông Vũ Đức Đam cũng không chứng minh được. Cũng như các nhân sĩ trí thức ông Đam cũng thừa trí lự để biết bốn mối hiểm nguy ấy là có thật, càng quyết làm bauxite thì bốn mối hiểm nguy ấy càng trở thành hiện thực.


Vậy cái lợi ích tổng hòa ông Đam nói đến là cái gì? Có phải tổng hòa làm sao ông ba Tàu không nổi giận, ghế Thủ tướng vẫn không lung lay, TKV vẫn hưởng lộc dài dài và ông Vũ Đức Đam vẫn được Thủ tướng ban cho 7 chữ vàng: Đồng- chí- làm- việc- tôi- yên- tâm như Mao trạch Đông ban cho Hoa Quốc Phong ngày nào?


Nếu lợi ích tổng hòa là vậy thì kết cục thảm hại tất nhiên sẽ đến rất sớm, ông Vũ Đức Đam tất nhiên đã nhìn thấy rất rõ. Chỉ tiếc cho ông Đam, một ông quan tài đức hiếm hoi,  chẳng biết làm gì hơn, đành khuất thân trong cái bóng dù rách, thật tội nghiệp.


Đêm qua năm mơ thấy ông Đam rũ tay áo ngẩng cao đầu, nói chúng ta sai rồi, thưa thủ tướng! Thủ tướng hỏi kẻ nào khiến ta sai? Ông Đam rút trong tay áo ra  thất trảm sớ  dâng lên Thủ tướng. Đến đây thì bừng tỉnh, mình ngồi lẩn thẩn nghĩ ra hai cái kết. Một là Thủ tướng ôm lấy ông Đam, nói trời ơi thế này sao mày không báo sớm cho anh. Hai là Thủ tướng ném cái thất trảm sớ vào sọt rác, một giờ sau ông Đam biến khỏi văn phòng chính phủ.


Cái kết nào hay cho ông Đam? Mình nghĩ cả hai cái kết đều hay cho ông Đam, vấn đề là ông Đam có đủ can đảm làm nên những cái kết tuyệt vời như thế không? Chắc không. Chợt nhớ slogan của nhà báo Nguyễn Đắc Kiên: The secret of Freedom is courage, bí mật của tự do là lòng can đảm. Đó chắc chắn không phải slogan của ông Vũ Đức Đam. Như hầu hết các ông quan thời này, lý tưởng của ông Đam là vinh thân phì gia chứ không phải tự do, vì thế lòng can đảm chẳng những đó là thứ phẩm giá xa xỉ mà nó còn rất nguy hiểm, ông Đam không ngu  cũng chẳng dại để dùng nó.


Vì thế bí mật của ông Đam chính là lợi ích tổng hòa mà ông đã nói, có phải vậy chăng?


Hu hu


NQL